NASA công bố một bức ảnh tuyệt đẹp chụp bởi kính viễn vọng không gian Hubble, cho thấy khoảng không đầy bí ẩn bên trong tinh vân NGC 1999.
Tinh vân NGC 1999 trong quan sát mới từ kính viễn vọng không gian Hubble. Ảnh: NASA/ESA
Nằm trong chòm sao Lạp Hộ cách Trái Đất khoảng 1.350 năm ánh sáng, tinh vân NGC 1999 là một tàn tích của quá trình hình thành sao, bao gồm những mảnh vụn và mây bụi còn sót lại bao quanh một ngôi sao trẻ có tên là V380 Orionis.
Trong ảnh chụp mới từ kính viễn vọng không gian Hubble được NASA công bố vào tuần này, NGC 1999 xuất hiện như một đám mây xoáy màu trắng và xanh nhạt với một nguồn sáng duy nhất (V380 Orionis) ở trung tâm, trông như sương mù cuộn quanh đèn đường.
Tuy nhiên, khía cạnh đáng chú ý nhất của tinh vân là một khoảng không khổng lồ màu đen nằm ngay cạnh ngôi sao V380 Orionis. Do hình dạng và vị trí đặc biệt của nó, khoảng trống này còn được mệnh danh là "ổ khóa của vũ trụ".
Khi tinh vân NGC 1999 lần đầu tiên được quan sát thấy bởi kính Hubble vào năm 1999, các nhà thiên văn học tin rằng vùng trung tâm của nó là một tinh cầu Bok - cấu trúc mây khí lạnh, cùng với các phân tử và bụi vũ trụ dày đặc.
Tuy nhiên, các quan sát bổ sung từ một loạt kính thiên văn khác, bao gồm cả Đài quan sát không gian Herschel của Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA), đã tiết lộ mảng tối thực sự là một vùng không gian trống. Điều gì tạo nên "ổ khóa vũ trụ" này vẫn là một bí ẩn.
Để tạo ra hình ảnh tuyệt đẹp trên, các nhà thiên văn học từ NASA và ESA đã sử dụng dữ liệu lưu trữ từ camera trường rộng 2 của Hubble, kết hợp các cảm biến tia cực tím, ánh sáng khả kiến và cận hồng ngoại, trong đó cảm biến cận hồng ngoại đóng vai trò quan trọng nhất vì các cảm biến khác không thể nhìn thấy những đám mây bụi ở phía sau tinh vân.
Với camera hồng ngoại nhạy hơn nhiều, kính viễn vọng không gian James Webb - mới đi vào hoạt động từ giữa năm nay - được kỳ vọng có thể cung cấp cái nhìn chi tiết hơn, giúp giải mã những bí ẩn chưa có lời giải về NGC 1999.
Mực ma cà rồng gần như không thay đổi so với tổ tiên sống cách đây hàng trăm triệu năm và thường được các nhà khoa học gọi là "hóa thạch sống".
Mực ma cà rồng kiếm mồi dưới biển sâu. Video: MBARI
Mang tên Vampyroteuthis infernalis, có nghĩa "mực ma cà rồng từ địa ngục" trong tiếng Latinh, loài vật này chuyên sống dưới biển sâu, có cơ thể màu đỏ sậm và lớp màng giống áo choàng giữa 8 xúc tu. Bất chấp tên gọi và hình dáng, chúng không phải mực hay bạch tuộc mà thuộc bộ động vật chân đầu riêng. Chúng là thành viên còn sống duy nhất được biết tới ở bộ mực quỷ (Vampyromorphida).
Theo Bruce Robison, nhà khoa học ở Viện nghiên cứu thủy cung vịnh Monterey, mực ma cà rộng đại diện cho động vật chân đầu cổ đại trước khi tách thành bạch tuộc và mực. Chúng có 8 xúc tu và hai sợi dài mảnh không có ở động vật chân đầu khác. Chúng sử dụng hai sợi đó để thu thập các hạt thức ăn. Giữa các xúc tu là lớp màng giống chiếc ô. Ở mặt trong xúc tu của mực ma cà rồng là giác hút.
"Ngay cả khi mực ma cà rồng là mục tiêu của một dự án nghiên cứu, chúng tôi không bao giờ có thể chắc chắn sẽ tìm thấy một mẫu vật khi cần. Chúng là động vật đơn độc và phân bố thưa thớt giữa môi trường sống rộng mênh mông", Robison nói.
Mực ma cà rồng ưa môi trường sâu, tối và lạnh, thường ở 610 - 914 m dưới mặt nước, nơi mật độ oxy khá thấp. Chúng có một số đặc điểm thích nghi cực tốt với môi trường này, bao gồm lực nổi trung tính và tốc độ trao đổi chất thấp, giúp giảm nhu cầu phát triển mô cơ để chuyển động và tiết kiệm năng lượng. Bề ngoài sẫm màu giúp chúng tránh tầm mắt của động vật săn mồi và nhu cầu chạy trốn nhanh. Mực ma cà rồng thích nghi hoàn hảo với nhiệt độ thấp và lượng oxy giảm bởi chúng có tốc độ trao đổi chất chậm, hành vi lừ đừ và hệ thống thu thập oxy từ nước.
Loài mực này có thể tồn tại nhờ chủ yếu ăn "tuyết biển", hỗn hợp mạt vụn, xác động vật, phân và dịch nhầy chìm xuống đáy biển. Phương pháp kiếm ăn này chưa bao giờ được ghi nhận ở động vật châu đầu. Một trong số ít động vật ăn mực ma cà rồng là cá voi có răng, loài không bị ảnh hưởng bởi nồng độ oxy thấp ở độ sâu chúng sinh sống.
Chỉ trong hai thập kỷ qua, Trung Quốc đã có những bước tiến vượt bậc trên con đường trở thành một cường quốc không gian.
Một vụ phóng vệ tinh BDS-3 vào ngày 5/11/2019. Ảnh: AFP
Nền kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng nhanh chóng kể từ đầu thế kỷ 21, dẫn đến đầu tư lớn hơn vào các chương trình không gian và nhờ đó đạt được nhiều thành tựu ấn tượng trong hơn hai thập kỷ qua.
Hệ thống vệ tinh định vị Bắc Đẩu
Ngay đầu những năm 2000, Trung Quốc đã bắt tay xây dựng hệ thống vệ tinh định vị độc lập đầu tiên của riêng mình - được gọi là Bắc Đẩu hay BDS - để thay thế cho GPS của Mỹ.
Thế hệ đầu tiên (BDS-1), bao gồm ba vệ tinh thử nghiệm, ra mắt vào năm 2000 và hoạt động đến cuối năm 2011 với phạm vi phủ sóng và dịch vụ định vị hạn chế. Thay thế cho hệ thống cũ là thế hệ BDS-2, bao gồm 5 vệ tinh quỹ đạo địa tĩnh và 30 vệ tinh phi địa tĩnh, bắt đầu cung cấp dịch vụ cho khu vực châu Á - Thái Bình Dương vào tháng 12/2012, với thông tin định vị chính xác đến 10 m.
Năm 2015, Trung Quốc ra mắt hệ thống Bắc Đẩu thế hệ thứ ba (BDS-3) để phủ sóng toàn cầu. Vệ tinh đầu tiên phóng vào ngày 30/3/2015 và đến ngày 23/6/2020, toàn bộ mạng lưới được hoàn thành với vệ tinh thứ 30 cuối cùng được đưa vào quỹ đạo. Hệ thống BDS-3 không chỉ vượt trội so với hai thế hệ trước đó mà còn được mô tả là chính xác hơn cả ba hệ thống định vị toàn cầu của Mỹ, Nga và châu Âu, với sai số chỉ 10 cm, theo SCMP.
Các chuyến bay có phi hành đoàn
Vào ngày 15/10/2003, phi hành gia Yang Liwei bay vào không gian trên tàu vũ trụ Thần Châu 5 bằng tên lửa Chường Trinh 2F trong hơn 21 giờ, đưa Trung Quốc trở thành quốc gia thứ ba có khả năng thực hiện chuyến bay vũ trụ độc lập của con người.
Thành tựu này đã đặt nền móng cho một loạt chuyến bay có phi hành đoàn khác trong gần hai thập kỷ sau đó và mới đây nhất là nhiệm vụ Thần Châu 14 vào ngày 5/6/2022, đưa ba phi hành gia vào không gian trong 6 tháng như một phần trong kế hoạch xây dựng trạm vũ trụ dài hạn đầu tiên của Trung Quốc, theo CGTN.
Trạm vũ trụ Thiên Cung
Trung Quốc bắt đầu nghiên cứu phát triển trạm vụ trụ đầu tiên của nước này từ thập niên 2010 với các nguyên mẫu Thiên Cung 1 và 2 lần lượt được đưa lên quỹ đạo vào tháng 9/2011 và tháng 9/2016. Cả hai trạm thử nghiệm này đều không được thiết kế để hoạt động dài hạn trên quỹ đạo, mà thay vào đó là để kiểm tra các công nghệ quan trọng cho trạm vũ trụ chính thức, có tên là Thiên Cung, được xây dựng vào thập niên sau đó.
Bộ phận chính đầu tiên của Thiên Cung - module Thiên Hòa - được phóng lên vào ngày 29/4/2021 bằng tên lửa Trường Chinh 5B. Đây là module nòng cốt của trạm vũ trụ, có kích thước dài 16,6 m và rộng 4,2 m, với chức năng hỗ trợ sự sống, cung cấp hướng dẫn, điều hướng và kiểm soát toàn bộ trạm.
Hai module còn lại tạo nên diện mạo hoàn chỉnh cho trạm Thiên Cung giai đoạn đầu là Vấn Thiên và Mộng Thiên. Đây đều là các cabin phòng thí nghiệm có cùng kích thước dài 17,9 m, rộng 4,2 m và được phóng lên vào năm nay.
Trong khi module Vấn Thiên đã bay lên quỹ đạo và ghép nối thành công với module Thiên Hòa vào tháng 7/2022, module Mộng Thiên dự kiến được phóng vào ngày 31/10 tới đây. Module cùng với tên lửa đẩy Trường Chinh 5B hiện đã được dựng đứng trên bệ phóng tại Bãi phóng Tàu vũ trụ Văn Xương ở đảo Hải Nam, theo Space.
Chương trình Mặt Trăng
Tàu vũ trụ Thường Nga 1 cất cánh vào ngày 24/10/2007 và đi tới quỹ đạo Mặt Trăng vào ngày 7/11/2007, giúp Trung Quốc trở thành quốc gia thứ năm đưa thành công một con tàu vũ trụ vào quỹ đạo của thiên thể này. Dữ liệu thu thập bởi Thường Nga 1 đã giúp tạo bản đồ 3D chính xác và có độ phân giải cao về bề mặt Mặt Trăng, theo Asia Times.
Tiếp nối thành công, Trung Quốc tiếp tục phóng tàu quỹ đạo Mặt Trăng thế hệ tiếp theo, Thường Nga 2, vào ngày 1/10/2010. Con tàu đã nghiên cứu Mặt Trăng từ độ cao 100 km để chuẩn bị cho "cuộc hạ cánh mềm" đầu tiên của tàu Thường Nga 3.
Sứ mệnh Thường Nga 3, bao gồm một tàu vũ trụ, tàu đổ bộ và robot tự hành, được khởi động vào ngày 1/12/2013. Tàu vũ trụ đến quỹ đạo Mặt Trăng vào ngày 6/12/2013, trong khi tàu đổ bộ và robot tự hành hạ cánh có kiểm soát xuống bề mặt thiên thể vào ngày 14/12/2013, đưa Trung Quốc trở thành quốc gia thứ ba làm được điều này sau Mỹ và Liên Xô.
Kể từ đó, Trung Quốc đã đưa thành công thêm hai tàu đổ bộ và robot thám hiểm tới bề mặt Mặt Trăng trong nhiệm vụ Thường Nga 4 và 5 lần lượt vào các năm 2019 và 2020, trong đó nhiệm vụ Thường Nga 5 đã thu thập được 1.731 g mẫu đá Mặt Trăng và đưa trở về Trái Đất vào tháng 12/2020. Đây là sứ mệnh trả mẫu Mặt Trăng đầu tiên kể từ chuyến bay Luna 24 của Liên Xô vào năm 1976.
Khám phá liên hành tinh
Trung Quốc bắt đầu nỗ lực thăm dò liên hành tinh vào năm 2011 bằng cách cử Huỳnh Hỏa 1, một tàu quỹ đạo sao Hỏa, tham gia sứ mệnh chung với Nga. Tuy nhiên, nó không thể rời quỹ đạo Trái Đất do phương tiện phóng của Nga bị hỏng.
Robot Chúc Dung chụp ảnh cùng với trạm đổ bộ bằng camera không dây. Ảnh: CNSA
Một thập kỷ sau đó, Trung Quốc cuối cùng cũng thành công với sứ mệnh liên hành tinh đầu tiên của mình khi tàu vũ trụ Thiên Vấn 1 (phóng vào tháng 7/2020) đã đi vào quỹ đạo xung quanh sao Hỏa vào ngày 10/2/2021 và tới ngày 14/5/2021, tàu đổ bộ cùng robot tự hành Chúc Dung đã tách khỏi tàu quỹ đạo và hạ cánh có kiểm soát xuống bề mặt hành tinh đỏ.
Với việc triển khai thành công robot Chúc Dung, Trung Quốc trở thành quốc gia thứ hai đạt được thành tích này sau Mỹ (Liên Xô từng đưa một tàu đổ bộ tới bề mặt sao Hỏa vào năm 1971 nhưng thiết bị đã mất liên lạc chỉ vài giây sau đó), theo Universe Today.
Kế hoạch 5 năm
Trung Quốc muốn đạt được nhiều thành công hơn nữa về thăm dò bằng robot trong kế hoạch 5 năm tiếp theo. Theo sách trắng "Chương trình Không gian Trung Quốc: một viễn cảnh sau năm 2021" phát hành vào ngày 28/1/2022, nước này sẽ khởi động thêm sứ mệnh Thường Nga 6 để lấy mẫu tại một vùng cực của Mặt Trăng; Thường Nga 7 để thực hiện một cuộc hạ cánh chính xác xuống vùng tối của Mặt Trăng và tìm kiếm băng nước; đồng thời hoàn thành nghiên cứu và phát triển các công nghệ quan trọng cho tàu Thường Nga 8, được thiết kế để đặt nền móng cho một trạm nghiên cứu trên Mặt Trăng, theo Space.
Các kế hoạch đầy tham vọng khác như đưa người lên Mặt Trăng trong tương lai gần, lấy mẫu đất sao Hỏa đem về Trái Đất, khám phá hệ thống sao Mộc và thăm dò ranh giới của hệ Mặt Trời cũng được nêu rõ trong sách trắng.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng đang phát triển một kính viễn vọng không gian khảo sát bầu trời mang tên Xuntian. Nó có một gương chính đường kính 2 m, với trường nhìn lớn hơn gấp 300 lần so với kính viễn vọng không gian Hubble của NASA và ESA. Công cụ dự kiến được phóng lên quỹ đạo vào năm 2024.
Tàu vũ trụ Solar Orbiter của ESA quay video độ phân giải cao nhất về lớp ngoài cùng của khí quyển Mặt Trời gọi là vành nhật hoa.
Vành nhật hoa yên tĩnh trong video quay bởi tàu Solar Orbiter. Video: ESA
Tàu Solar Orbiter phóng vào năm 2020 chụp một loạt ảnh trong đợt bay sát Mặt Trời gần đây, qua điểm cận nhật, hôm 13/10. Video quay bằng thiết bị Extreme Ultraviolet Imager (EUI) của Solar Orbiter hé lộ vành nhật hoa ở trạng thái tĩnh lặng, gần như bất động. Sự tĩnh lặng này khá bất ngờ bởi hoạt động của Mặt Trời gia tăng gần đây theo chu kỳ 11 năm.
Vành nhật hoa là lớp ngoài cùng của khí quyển Mặt Trời, trải rộng hàng triệu km vào không gian. Vành nhật hoa cực kỳ nóng (hơn 1 triệu độ C), nóng hơn về mặt Mặt Trời (6.000 độ C). Khu vực này là nguồn tạo ra cơn phun trào nhật hoa, những chớp plasma từ hóa có thể ảnh hưởng tới từ trường Trái Đất và gây ra bão địa từ, dẫn tới cực quang, mất điện và trục trặc vệ tinh.
Tàu Solar Orbiter quay video khi ở cách bề mặt Mặt Trời 43 triệu km, bằng khoảng 29% khoảng cách giữa Trái Đất và ngôi sao, gần hơn quỹ đạo của hành tinh ở trong cùng hệ, sao Thủy. Mỗi pixel trong video đại diện cho khu vực rộng 105 km. Vòm plasma sáng rực trong video bị giữ tại chỗ bởi vòng xoắn từ trường cực mạnh phát ra từ bên trong Mặt Trời.
Solar Orbiter là một trong hai tàu vũ trụ đang khám phá Mặt Trời ở khoảng cách gần. Tàu thăm dò Mặt Trời Parker của NASA bay sát Mặt Trời hơn, nhưng tàu Solar Orbiter chụp ảnh Mặt Trời cận cảnh hơn bất kỳ tàu vũ trụ nào khác. Môi trường ở khu vực tàu Parker bay qua cách bề mặt Mặt Trời vài triệu km quá nóng để thiết bị chụp ảnh có thể hoạt động. Kết hợp với nhau, hai tàu vũ trụ giúp các nhà khoa học hiểu rõ hành vi của Mặt Trời. Dù đây là ngôi sao gần Trái Đất nhất, vẫn còn nhiều điều giới nghiên cứu chưa rõ về nó như tại sao vành nhật hoa lại nóng đến vậy hay cơ chế chính xác của chu kỳ hoạt động 11 năm.
Bảng xếp hạng về công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo áp dụng với các cơ sở nghiên cứu đào tạo theo mô hình CSRanking (Mỹ) nhưng cải tiến phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Sau hai tháng đưa ra dự thảo, chiều 28/10, các chuyên gia, nhà khoa học đã đưa ra bảng xếp hạng thử nghiệm, tạm gọi là ICTRanking (Việt Nam). Bảng xếp hạng áp dụng phân hạng CSRanking (Mỹ), dựa trên số liệu và xếp hạng các cơ sở giáo dục thông qua danh sách tạp chí, hội thảo uy tín. Việc thu thập cơ sở dữ liệu về các nhà khoa học được lấy từ công bố trên cơ sở dữ liệu lưu trữ các tài liệu về lĩnh vực khoa học máy tính (DBLP). Bằng phần mềm xếp hạng và thuật toán sẽ giúp tính điểm đưa ra danh sách xếp hạng. Dự án do Vụ Công nghệ cao, Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp cùng trường Đại học Thủy Lợi, Câu lạc bộ FISU và Hội tin học Việt Nam xây dựng, triển khai.
PGS. TS Nguyễn Hữu Quỳnh, Đại học Thủy Lợi cho biết, cách tính điểm nhà khoa học của CSRanking (Mỹ) theo tiêu chí quy đổi điểm chỉ từ công bố khoa học có trong tạp chí và hội thảo hàng đầu trong cơ sở dữ liệu DBLP. Ví dụ xếp hạng ở ngành khoa học máy tính, chỉ có 173 trường (tính cả đồng hạng) có mặt trong danh sách, ngay cả Stanford University chỉ xếp thứ 5, trường ĐH Yale (rank33). Khi áp dụng phân hạng CSRanking vào dữ liệu Việt Nam (dữ liệu từ khoa công nghệ thông tin từ 14 trường trong cả nước), chỉ 4 trường lọt top khi thử nghiệm.
Trên thực tế, các nhà khoa học Việt Nam trong lĩnh vực công bố chưa nhiều, nếu chỉ sử dụng đơn lẻ các cơ sở dữ liệu nêu trên sẽ khó đưa ra được bức tranh tổng thể về một nhà khoa học. Do đó phân hạng này không khả thi trong điều kiện của các cơ sở giáo dục Việt Nam.
Theo đó để phù hợp với điều kiện ở Việt Nam, dữ liệu được thu thập theo 3 nhóm, gồm: Khai thác dữ liệu công bố thuộc CSRanking; các tập dữ liệu công bố trên DBLP nhưng ngoài CSRanking và các công bố ngoài DBLP nhưng được tính điểm bởi Hội đồng giáo sư nhà nước, gồm công bố trong nước và công bố quốc tế.
Bảng phân hạng trên ICTRanking được đưa ra sau khi điều chỉnh với các nhóm để phát triển các thuật toán và công thức tính toán. Kết quả phân hạng thử nghiệm cho ra bảng xếp hạng 14/15 trường tham gia gửi cơ sở dữ liệu, đồng thời có thống kê từng nhà khoa học tại mỗi cơ sở giáo dục. Riêng với lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, chỉ còn 12 trường lọt vaò bảng xếp hạng, thứ hạng các trường cũng thay đổi ở ngành chuyên sâu.
Sinh viên thực hành làm thí nghiệm tại trường Đại học Phenikaa. Ảnh: HM
Các chuyên gia, nhà khoa học đánh giá xếp hạng sơ bộ thử nghiệm khá thiết thực, song cần phải làm kỹ dữ liệu và minh bạch thông tin. TS Võ Đình Hiếu, trường ĐH Công nghệ (ĐHQG Hà Nội) cho rằng vẫn cần xem xét việc việc sử dụng cơ sở dữ liệu DBLP phù hợp với thực tế tại Việt Nam hay chưa, trong khi nhiều bảng xếp hạng khác sử dụng dữ liệu Scopus và Web of Science (WoS), hay tạp chí Q1, Q2... Ông cũng đề xuất xây dựng các tiêu chí phân hạng trí tuệ nhân tạo rõ ràng.
PGS.TS Ngô Hồng Sơn, trường ĐH Phenikaa, góp ý cần bàn bạc kỹ các tạp chí nhóm 1, nhóm 2, có thể hướng tới tiêu chí chất lượng thay vì số lượng, xem xét công sức nhà khoa học tại một số hội thảo trong cách tính để có độ chính xác cao hơn.
Ông Lý Hoàng Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Công nghệ cao, Bộ Khoa học và Công nghệ, cho biết dự án khởi đầu có nhiều điểm cần hoàn thiện. Mong các trường tham gia tiếp tục đóng góp ý kiến nhằm hoàn thiện bổ sung sớm đưa bộ chỉ số vào triển khai. Ông kỳ vọng khi có công cụ đưa ra chỉ số để trở thành thông số quan trọng dựa trên các công bố công trình khoa học thuộc các lĩnh vực chuyên sâu của ngành công nghệ thông tin truyền thông như AI, IoT hay blockchain...
Ông cho biết việc xây dựng bảng xếp hạng riêng cho Việt Nam giúp cộng đồng học thuật, học sinh sinh viên lựa chọn được nơi học tập, công tác. Các cơ sở có tham chiếu, phân tích được điểm mạnh, điểm yếu để làm tốt công tác nghiên cứu, đào tạo, đảm bảo chất lượng giáo dục. Cơ quan quản lý nhà nước có thông tin để đánh giá đúng, từ đó đầu tư và có kế hoạch giao nhiệm vụ phù hợp.
Dự án "Xây dựng bảng phân hạng năng lực công bố về lĩnh vực CNTT &TT, và AI của các cơ sở nghiên cứu và đào tạo tại Việt Nam" do Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, chương trình Aus4Innovation, Bộ Ngoại giao và Thương mại Australia tài trợ, Tổ chức Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Australia CSIRO quản lý. Chương trình có tổng ngân sách 16,5 triệu đô la AUD, triển khai trong giai đoạn 2018-2022.
Na UySâu bên trong Vòng cực Bắc, thị trấn Longyearbyen trên quần đảo Svalbard, nơi định cư xa nhất về phương bắc trên thế giới, ấm lên nhanh gấp 6 lần mức trung bình toàn cầu.
Thị trấn Longyearbyen là thủ phủ của quần đảo Svalbard. Ảnh: Audley
Người dân ở Longyearbyen thường đem theo súng bất cứ khi nào đi xa khỏi đường chính do nguy cơ đụng độ gấu Bắc Cực. Lượng băng trên biển sụt giảm dẫn tới khu vực săn mồi của chúng giảm theo, có nghĩa gấu Bắc Cực sẽ khó tìm được hải cẩu hơn. Vì vậy, ngày càng nhiều con gấu mò mẫm trong khu dân cư để tìm thức ăn và chuyển sang ăn thịt tuần lộc.
Các chuyên gia từ Viện Bắc cực Na Uy tính toán Svalbard đang nóng lên nhanh gấp 6 lần mức trung bình toàn cầu, BBC hôm 27/10 đưa tin. Nhiệt độ ở đã tăng 4 độ C trong 50 năm qua. Nhiệt độ tăng lên kéo theo nền đất đóng băng rã đông nhiều chưa từng thấy, nguy cơ lở đất đe dọa cộng đồng dân cư ở Longyearbyen vào mùa đông. Trong mùa hè, lở đất nhiều khả năng xóa sổ mọi thứ trên đường đi. Một trong những nơi phản ánh rõ nhất tác động của biến đổi khí hậu do con người gây ra là nghĩa trang địa phương. Các đường rãnh còn lưu lại tại đây là dấu tích của trận lở đất lớn suýt cuốn trôi cả nghĩa trang xuống dòng sông bên dưới.
Theo dõi động vật hoang dã qua ống nhòm, nhà thám hiểm Bắc Cực Hilde Fålun Strøm phát hiện 3 con gấu Bắc Cực tụ tập ở rìa sông băng. Theo Strøm, để sống sót, gấu Bắc Cực phải săn mồi cực giỏi bởi nguồn thức ăn chính của chúng là hải cẩu đang biến mất dần. Lớp băng biển mà cả hải cẩu và gấu Bắc Cực sử dụng để kiếm ăn cũng đang thu hẹp. Từ thập niên 1980, lượng băng biển vào mùa hè đã giảm một nửa và một số nhà khoa học lo ngại lớp băng sẽ biến mất hoàn toàn vào năm 2035.
Kim Holmén, cố vấn đặc biệt ở Viện Bắc Cực Na Uy, đã nghiên cứu Svalbard trong hơn 40 năm. Ông chỉ lên đỉnh sườn đồi và cho biết đó là vết tích của sông băng 100 năm trước. So với thời điểm đó, độ cao của sông băng đã giảm ước tính 100 m.
Dù nằm ở vị trí hẻo lánh, Svalbard vẫn là một điểm nóng địa chính trị. Hiện nay, xung đột tại Ukraine đang làm gián đoạn hợp tác giữa các nhà khoa học ở Nga và phương Tây, góp phần gây suy yếu cuộc chiến chống biến đổi khí hậu.
Sự khúc xạ và tán xạ ánh sáng gây ra bởi các tinh thể băng tạo nên hiện tượng Mặt Trời ma và hào quang tuyệt đẹp ở Thụy Điển.
Mặt Trời ma xuất hiện cùng với hào quang ở Thụy Điển. Video: The Figen
Đoạn video được Newsweek chia sẻ hôm 27/10, do một người trượt tuyết ghi lại tại khu nghỉ dưỡng Vemdalen ở miền trung Thụy Điển, cho thấy hai vòng tròn bao quanh Mặt Trời cùng với các đốm sáng lớn xuất hiện nổi bật phía trên sườn núi phủ đầy tuyết trắng.
Đây là hai hiện tượng quang học khí quyển hiếm gặp, được gọi là hào quang và Mặt Trời ma. Trong khi đốm sáng lớn nhất ở trung tâm là Mặt Trời thật, hai đốm sáng nhỏ hơn nằm ở hai bên là các ảo ảnh được gọi là Mặt Trời giả hay Mặt Trời ma.
Mặt Trời ma xảy ra do sự khúc xạ và tán xạ ánh sáng mặt trời, gây ra bởi các tinh thể băng hình lục giác trong khí quyển, tương tự như cách cầu vồng hình thành do sự khúc xạ và tán xạ ánh sáng thông qua các giọt nước có kích thước khác nhau.
Trong trường hợp này, các tinh thể băng đóng vai trò như lăng kính thu nhỏ, bẻ cong ánh sáng đi qua chúng với góc lệch tối thiểu 22°. Thông thường sẽ có một cặp đốm sáng nằm đối xứng hai bên Mặt Trời ở trên vòng hào quang. Hiện tượng xuất hiện ở Vemdalen bao gồm cả hào quang 22° (nhỏ hơn) và hào quang 46° (lớn hơn nhưng mờ hơn).
Theo EarthSky, sự hiện diện của các vòng hào quang và Mặt Trời ma còn là dấu hiệu cho thấy có những đám mây ti tích mỏng lơ lửng ở độ cao từ 6 km trở lên, nơi chứa rất nhiều tinh thể băng. Tất cả các hiện tượng này thường chỉ được quan sát thấy trong môi trường lạnh.
Các nhà khoa học tìm thấy một hệ thống sông ngầm khổng lồ bên dưới lớp băng ở Nam Cực, có thể đẩy nhanh quá trình băng tan.
Hệ thống sông ngầm khổng lồ mới được phát hiện dưới lớp băng Nam Cực. Ảnh: Dow et al. 2022
Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature Geoscience hôm 27/10, do Đại học Imperial College London, Đại học Waterloo ở Canada, Đại học Malaysia Terengganu và Đại học Newcastle của Anh phối hợp thực hiện, mang đến cho chúng ta một cái nhìn mới về Nam Cực, đồng thời nhắc nhở còn nhiều điều hơn nữa để tìm hiểu về lục địa này.
"Khi lần đầu tiên phát hiện ra các hồ bên dưới lớp băng ở Nam Cực cách đây vài thập kỷ, chúng ta nghĩ chúng bị cô lập với nhau. Bây giờ, chúng ta bắt đầu hiểu rằng có cả một hệ thống ở dưới đó, được kết nối với nhau bằng các mạng lưới sông rộng lớn", đồng tác giả Martin Siegert, Giáo sư từ Viện Grantham thuộc Đại học Hoàng gia London, nói trong thông cáo báo chí.
Nghiên cứu mô tả cách con sông dài 460 km thu thập nước từ một khu vực có kích thước bằng Đức và Pháp cộng lại, cho thấy lưu lượng nước hoạt động dưới đáy tảng băng ở Nam Cực nhiều hơn những gì các nhà khoa học từng nghĩ và điều này có thể khiến nó dễ bị tổn thương hơn trước biến đổi khí hậu.
"Khu vực nghiên cứu có lượng băng đủ để nâng mực nước biển trên toàn cầu thêm 4,3 m. Lượng băng đó tan ra bao nhiêu và tốc độ ra sao có liên quan đến độ trơn của đáy băng. Hệ thống sông mới được phát hiện có thể ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình này", Seigert giải thích.
Khám phá được thực hiện bằng cách kết hợp các mô hình thủy văn của tảng băng và kỹ thuật đo radar trong không khí, cho phép nhìn thấy bên dưới lớp băng. Nhóm nghiên cứu tập trung vào một khu vực chưa được nghiên cứu kỹ lưỡng và phần lớn không thể tiếp cận được, nơi có chứa băng từ cả đông và tây Nam Cực, kéo dài đến biển Weddell.
"Từ các phép đo vệ tinh, chúng tôi biết những khu vực nào của Nam Cực đang mất băng và lượng băng bao nhiêu, nhưng chúng tôi không nhất thiết phải biết tại sao. Khám phá này có thể là một liên kết bị thiếu trong các mô hình dự đoán hiện tại. Chúng ta có thể đã đánh giá thấp tốc độ băng tan chảy khi không tính đến ảnh hưởng của các hệ thống sông này", trưởng nhóm nghiên cứu Christine Dow, Tiến sĩ từ Đại học Waterloo, nói thêm.
Có hai cách chính mà nước có thể đi vào bên dưới các tảng băng. Một là thông qua sự tan chảy ở đáy do ma sát khi băng dịch chuyển trên đất liền và sức nóng vốn có của Trái Đất. Một cách khác là thông qua băng tan chảy trên bề mặt và nước chảy xuống qua các khe sâu.
Ở Nam Cực, mùa hè được cho quá lạnh để lượng nước tan chảy trên bề mặt tạo ra các khe sâu. Do đó, người ta cho rằng chỉ có một lượng nhỏ nước hiện diện dưới chân các tảng băng ở Nam Cực. Phát hiện mới nhất bác bỏ giả thuyết này bằng cách chứng minh có đủ nước từ quá trình tan chảy cơ bản để tạo thành các hệ thống sông quan trọng bên dưới lớp băng dày hàng kilomet.
Nhóm nghiên cứu đang thu thập thêm thông tin từ các cuộc khảo sát liên quan đến hệ thống sông mới. Họ hy vọng có thể điều chỉnh mô hình hiện có cho các khu vực khác để hiểu rõ hơn về cách Nam Cực có thể ảnh hưởng đến hành tinh.
Những ngôi sao trẻ nhất quan sát được khoảng 1 triệu tuổi, trong khi sao già nhất thậm chí có thể già hơn cả vũ trụ.
Kính viễn vọng Schmidt của Đài thiên văn Anh - Australia (AAO) chụp ảnh sao Methuselah dưới ánh sáng xanh. Ảnh: Khảo sát Bầu trời Kỹ thuật số (DSS)/STScI/AURA/Palomar/Caltech/UKSTU/AAO
Trong số vô số ngôi sao lấp lánh ngoài không gian rộng lớn, một số già đến mức đã trải qua buổi bình minh của vũ trụ, một số lại trẻ đến mức những kính viễn vọng mạnh nhất trên Trái Đất cũng chưa thể quan sát được. Vậy đâu là ngôi sao trẻ nhất và già nhất vũ trụ?
Rất khó xác định ngôi sao trẻ nhất vì các ngôi sao liên tục sinh ra. Tuy nhiên, các nhà khoa học có thể kể tên một số ứng cử viên trong số những ngôi sao đã biết. Trong khi đó, ngôi sao già nhất từng ghi nhận được đặt tên là Methuselah.
Sao hình thành sâu bên trong những đám mây khí bụi khổng lồ gọi là tinh vân. Theo NASA, một số khối khí trong tinh vân bị vật chất đè nặng đến mức lực hấp dẫn của chính chúng buộc chúng sụp đổ (vì khối lượng lớn đồng nghĩa với lực hấp dẫn lớn). Lực hấp dẫn lớn ở trung tâm của một khối khí đang sụp đổ khiến khí (chủ yếu là hydro) bồi tụ thành tiền sao (protostar). Những phôi sao này bắt đầu tổng hợp hạt nhân hydro thành heli và phát ra bức xạ. Chúng chưa được gọi là sao cho đến khi tỏa ra năng lượng và phát sáng.
Nhà thiên văn Ruobing Dong, phó giáo sư tại Khoa Vật lý và Thiên văn thuộc Đại học Victoria (Canada), đã quan sát những ngôi sao trẻ như vậy. Ông cùng các cộng sự công bố một nghiên cứu trên tạp chí Nature Astronomy năm 2022 về một hệ tiền sao đôi được cho là chỉ khoảng một triệu tuổi.
Các ngôi sao trẻ vẫn đang bồi tụ vật chất, do đó, chúng phóng ra những luồng khí khổng lồ từ một trong hai đầu. Điều này đồng nghĩa chúng vẫn đang bồi đắp khối lượng. Vì các luồng khí mờ dần khi sao già đi, lượng khí phóng ra giúp giới khoa học ước tính tuổi của một ngôi sao. Nhiều khí hơn nghĩa là ngôi sao đó trẻ hơn.
Mặt Trời khoảng 5 tỷ tuổi và dự kiến sống thêm 5 tỷ năm nữa. Ảnh: NASA/Goddard
Việc ước tính tuổi của sao HD 140283 hay Methuselah gây ra một số tranh cãi. Ước tính ban đầu từ những quan sát năm 2000 cho thấy nó khoảng 16 tỷ tuổi, theo NASA. Điều đó khiến nó già hơn vũ trụ với tuổi ước tính là 13,8 tỷ. Các nhà thiên văn lập tức cho rằng đã có sai sót trong cách tính tuổi của ngôi sao này, hoặc vũ trụ có thể hình thành sớm hơn rất nhiều so với suy nghĩ trước đây.
Để tìm hiểu sâu hơn, các nhà thiên văn sử dụng kính viễn vọng không gian Hubble để xác định lại tuổi của Methuselah vào năm 2013. Họ đưa ra ước tính là 14,5 tỷ tuổi dựa vào độ sáng và khoảng cách của nó với Trái Đất - khoảng 190 năm ánh sáng. Nếu vậy, ngôi sao này sẽ chỉ già hơn vũ trụ một chút, dù vẫn có những sai số về tuổi ước tính.
Methuselah là sao gần khổng lồ, nghĩa là sáng hơn đa số sao nhưng vẫn không bằng sao khổng lồ. Sao khổng lồ lớn đến mức kích thước của chúng có vẻ bất thường so với khối lượng và nhiệt độ. Sao gần khổng lồ cũng đỏ hơn sao khổng lồ.
Các ngôi sao giải phóng năng lượng bằng cách đốt cháy hydro trong lõi và chuyển thành heli thông qua phản ứng nhiệt hạch. Những ngôi sao khối lượng lớn đạt đến mức gần khổng lồ khi trữ lượng hydro bắt đầu cạn. Trong giai đoạn này, độ sáng của sao trở thành một phương tiện tuyệt vời để ước tính tuổi. Những ngôi sao gần khổng lồ mờ hơn thì sẽ già hơn.
Methuselah có sắc đỏ và dần mờ đi qua hàng tỷ năm, nhưng vị trí tương đối gần Trái Đất đồng nghĩa nó không quá mờ với con người và có thể nhìn thấy bằng ống nhòm phù hợp. Trong khi đó, Mặt Trời mới chỉ dưới 5 tỷ tuổi và dự kiến sống thêm khoảng 5 tỷ năm nữa, sau đó nguội đi và phình to đến mức nuốt chửng các hành tinh quay quanh, bao gồm cả Trái Đất.
Trạm Vũ trụ Quốc tế (ISS) đốt động cơ đẩy trong hơn 5 phút để tránh khỏi đường bay của mảnh vỡ đến từ vệ tinh Nga bị phá hủy năm ngoái.
Trạm ISS hoạt động ở độ cao hơn 400 km so với bề mặt Trái Đất. Ảnh: Reuters
NASA thông báo trạm ISS tiến hành đốt động cơ trong 5 phút 5 giây để tránh mảnh vỡ của tên lửa Cosmos 1408 mà Nga phá hủy trong thử nghiệm vũ khí vào tháng 11/2021. Trước đó, nhà chức trách NASA đã cảnh báo nguy cơ rác vũ trụ tăng nhanh do số lượng vệ tinh ngày càng lớn trên quỹ đạo và một số thử nghiệm phá hủy vệ tinh của chính phủ các nước.
TRạm ISS thực hiện "Thao tác tránh mảnh rác xác định từ trước" (PDAM) nhằm tăng khoảng cách với đường bay dự đoán của mảnh vỡ từ vệ tinh Cosmos 1408. Quá trình đốt động cơ đẩy diễn ra vào 7h25 ngày 25/10 theo giờ Hà Nội và không ảnh hưởng tới hoạt động của trạm. Nếu không thực hiện thao tác này, mảnh vỡ có thể bay qua cách trạm trong vòng 4,8 km. Hoạt động đốt giúp độ cao của trạm tăng 321 m.
Ngày 15/11/2021, vệ tinh Cosmos 1408 đã ngừng hoạt động bị phá hủy, tạo ra đám mây mảnh vỡ bao gồm 1.500 mảnh rác vũ trụ có thể theo dõi được. Bộ Tư lệnh Không gian Mỹ cho biết Nga thử nghiệm tên lửa phá vệ tinh rơi thẳng (ASAT).
ISS từng phải thực hiện thao tác tương tự hồi tháng 6 để tránh mảnh vỡ tạo bởi thử nghiệm phá vệ tinh. Trạm vũ trụ thường phải thay đổi quỹ đạo nhằm tránh mảnh rác vũ trụ một lần mỗi năm, tránh xa khỏi vật thể nếu nguy cơ va chạm vượt quá 0,01%, theo NASA.
Tuy không thể quan sát trên bầu trời đêm, có hàng trăm triệu mảnh rác bay quanh Trái Đất, bao gồm bộ phận vệ tinh cũ và tên lửa. Theo báo cáo năm ngoái của NASA, ít nhất 26.000 mảnh rác bay trên quỹ đạo Trái Đất có kích thước bằng trái bóng nỉ hoặc lớn hơn. Hơn 500.000 mảnh rác lớn cỡ viên bi có thể phá hủy tàu vũ trụ. Khi những mảnh rác này đâm vào nhau, chúng có thể tạo ra nhiều mảnh rác nhỏ hơn.
SloveniaCông viên hang động Postojna là nơi sinh sống của loài manh giông mù thường được ví như "rồng non" do hình dáng giống sinh vật trong truyền thuyết.
Hang động Postojna là môi trường sống của rồng non quý hiếm. Ảnh: Xinhua
Bên dưới những ngọn đồi đá vôi ở Postojna, Slovenia là hang động dưới lòng đất có sông ngầm chảy qua. Cùng với dế, cuốn chiếu và bọ cánh cứng, rồng non là loài thống trị hang động đa dạng sinh học nhất thế giới này, theo National Geographic. Những con kỳ giông sống dưới nước gần như trong suốt này có tên chính thức là manh giông (Proteus anguinus). Là động vật ăn thịt hàng đầu trong thế giới của chúng, manh giông có thể dài 30 cm, có khả năng tái tạo chi, sống tới 100 năm tuổi và nhịn ăn hàng chục năm. Các nhà khoa học đang nghiên cứu mã ADN của chúng để tìm cách lý giải khả năng tái tạo và thích nghi trên.
Một trong những nơi thích hợp nhất để nghiên cứu về chúng và tăng cường bảo tồn là Công viên hang động Postojna, cách thủ đô Ljubljana gần một giờ lái xe. Ban quản lý Postojna gần đây thông báo 30 con manh giông non chào đời trong hang động, một kỷ lục về tỷ lệ sống sót. Trong tự nhiên, các nhà khoa học ước tính chỉ có 2 trong số 500 quả trứng manh giông nở thành công. Tại Postojna, ít nhất 30 - 43 quả trứng đã nở, gấp đôi tỷ lệ năm 2016 và giúp xác nhận nỗ lực chăm sóc của các cán bộ ở Postojna đã tạo nên sự khác biệt.
Manh giông có khả năng tái tạo chi và sống rất lâu. Ảnh: Alamy
Với địa hình gồm vô số hố sụt và hang động tối sâu, trong quá khứ, cư dân địa phương tin rằng có rồng sống ở đây. Họ nghĩ sương mù ấm áp phun ra từ hang vào mùa đông là hơi thở của sinh vật khổng lồ dù thực chất, đó là kết quả từ nhiệt độ ổn định bên trong hang. Khi dòng sông chảy ra hang bị ngập và cuốn theo những con manh giông chết đuối, người dân xem chúng như con non của loài rồng lớn hơn ẩn nấp ở hang.
Ngày nay, chúng vẫn là loài bí ẩn, nằm trong danh mục dễ tổn thương của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) do thiếu dữ liệu. Giới khoa học thậm chí chật vật trong việc xác định có bao nhiêu cá thể sống trong lãnh địa nhỏ bé ở dãy núi Dinaric Alps trải dài dọc vùng ven biển Adriatic từ miền bắc Italy tới Albania. Môi trường sống dưới nước của chúng đang bị đe dọa bởi hóa chất gây ô nhiễm, phân bón thấm hoa lớp đá có độ thẩm thấu cao và bị hấp thụ bởi manh giông.
TP HCMAnh Dương Hữu Hoàng nghiên cứu thiết bị gắn trong ao để nghe sức bật của tôm, cảnh báo sức khỏe giúp người nuôi điều chỉnh môi trường, giảm tỷ lệ chết.
Thiết bị do anh Hoàng (37 tuổi) cùng nhóm 5 chuyên gia phát triển từ năm 2018 có thể gắn trên máy bơm oxy, máng cho ăn tự động trong ao nuôi tôm. Thiết bị chứa mạch cảm biến, tích hợp microphone để thu được tiếng tôm bật (búng), đớp mồi. Cảm biến âm thanh sẽ xác định quang phổ âm thanh, độ dày của tiếng bật trong ao từ đó dự đoán sớm tình trạng sức khỏe của tôm. Dữ liệu sẽ được đưa về khu vực điều khiển trung tâm bằng sóng radio, hiển thị dưới dạng đồ thị.
Tác giả cho biết, thiết bị được đặt ở vị trí đặt máy cho ăn, thu thập dữ liệu giúp chủ ao đánh giá sức khỏe của tôm để điều chỉnh thức ăn theo nhu cầu, tăng tỷ lệ sóng sót.
Dương Hữu Hoàng và thiết bị chứa cảm biến đo sức bật tôm và giám sát máy bơm oxy trong ao nuôi. Ảnh: Hà An
Theo Hoàng, khi tôm khỏe tần suất bật cao, có thể lên 100 lần mỗi phút. Nếu tôm yếu tần suất bật ít hơn, có khi không bật và nổi trên mặt nước rồi chết. Nhóm nghiên cứu đã xây dựng chương trình lọc âm để loại bỏ tạp âm, có thể phân biệt được tiếng ồn từ tôm bật và tiếng ồn của máy bơm, quạt nước...
Ngoài dữ liệu về sức bật, để xác định sức khỏe tôm cần thêm các chỉ số môi trường khác như oxy, carbonic (CO2), amoniac (NH3), hydro sunfua (H2S)... có trong nước. Nhóm đã phát triển thêm thiết bị có gắn cảm biến đo CO2, HN3, H2S... thông qua chất thải tôm.
Bộ thiết bị phần cứng đo các chỉ số môi trường trong ao tôm do nhóm phát triển. Ảnh: Hà An
Hoàng cho biết, các thiết bị sử dụng trong ao tôm truyền dữ liệu thông qua sóng radio, khoảng cách truyền có thể lên tới 5 km, phù hợp quy mô ao tôm diện tích lớn. Hiện sản phẩm của nhóm đang ứng dụng trên bốn ao nuôi ở Đồng Nai, Tiền Giang, Kiên Giang để đánh giá hiệu quả.
Vốn là kỹ sư ngành tự động hóa, từng làm việc trong lĩnh vực IoT nhưng Hoàng chứng kiến nông dân muốn sử dụng các thiết bị cho ao tôm phải mua với giá đắt (tới gần 100 triệu đồng cho mỗi ao tôm). Hoàng muốn làm một sản phẩm của người Việt giá thành rẻ hơn, công nghệ hoàn toàn trong nước. Sản phẩm của nhóm hiện giá chỉ bằng khoảng 1/10 so với nhập ngoại, có thể dễ dàng thay thế linh kiện trong quá trình bảo hành, đổi trả khi sản phẩm lỗi mà không phụ thuộc vào đơn vị khác. "Nhóm mong muốn hợp tác với các sở ngành, địa phương cho nông dân dùng thử sản phẩm ở quy mô lớn để đánh giá hiệu quả của hệ thống", Hoàng nói.
Giải pháp vừa giành giải ba cuộc thi chuyển đổi số trong sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao do Vườn ươm doanh nghiệp Khu nông nghiệp công nghệ cao TP HCM tổ chức mới đây.
Đánh giá đây là sản phẩm thiết thực cho ngành tôm trong nước, song ông Nguyễn Đức Tùng, Tổng thư ký Hiệp hội nông nghiệp số Việt Nam, cho rằng đây là sản phẩm không mới. Nhóm mới đo được vài chỉ số trong khi ao nuôi tôm trong khi có tới 16 chỉ tiêu giám sát khác nhau. "Thông qua dữ liệu nghe tôm búng, nhóm cần đưa ra phân tích sức khỏe và mật độ tôm trong ao để có cơ sở khoa học cho việc này", ông Tùng nói.
Hệ sinh thái đặc biệt gần Maldives là nơi sinh sống của những sinh vật thủy sinh tí hon và nhiều động vật săn mồi, ví dụ như cá mập.
Tàu lặn Omega Seamaster II nghiên cứu hệ sinh thái. Ảnh: Nekton Maldives Mission
Chuyến thám hiểm Nekton Maldives Mission gồm các nhà khoa học của chính phủ Maldives, tổ chức phi lợi nhuận Nekton và Đại học Oxford phát hiện "ốc đảo sự sống" - một hệ sinh thái mới sống động và nhộn nhịp với những đàn cá, cá mập săn mồi và những sinh vật thủy sinh tí hon, IFL Science hôm 24/10 đưa tin. Ốc đảo này nằm ở độ sâu khoảng 500 m dưới Ấn Độ Dương, gần Maldives.
Với sự trợ giúp của tàu lặn mini Omega Seamaster II, nhóm nghiên cứu thu thập các mẫu sinh học, quay phim và lập bản đồ khu vực mới phát hiện bằng sóng âm. Họ tập trung vào Satho Raha - ngọn núi ngầm khổng lồ với chu vi khoảng 28 km.
Hệ sinh thái ở đây đặc biệt khác thường vì nhóm sinh vật nhỏ gọi là micro-nekton dường như bị mắc kẹt ở độ sâu khoảng 500 m. Micronekton tương tự như động vật phù du, nhưng lớn hơn một chút với kích thước từ 2 - 20 cm. Các micro-nekton thường di chuyển xuống độ sâu lớn lúc bình minh, nhưng tại đây, chúng không xuống sâu hơn 500 m.
Các sinh vật nhỏ sẽ tập trung ở ốc đảo, tạo ra một "điểm nóng" đa dạng sinh học thu hút nhiều động vật ăn thịt lớn hơn, bao gồm cá ngừ, cá mập hổ, cá mập mang, cá mập hổ cát, cá mập chó, cá mập gulper, cá mập đầu búa, cá mập silky và cá mập bramble. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều chi tiết về "Vùng bẫy" mà các nhà khoa học chưa hiểu rõ.
"Tại sao điều này lại xảy ra? Có phải điều này chỉ xảy ra ở độ sâu 500 m, sinh vật sống có xuống sâu hơn không, sự chuyển đổi này là gì, có gì ở đó và tại sao?", Lucy Woodall, nhà khoa học biển tại Đại học Oxford, đặt câu hỏi.
Vùng bẫy có thể giúp giới khoa học nắm rõ hơn về micro-nekton, từ đó hiểu thêm về vùng biển sâu và thực hiện các biện pháp bảo tồn đại dương tốt hơn. "Nơi này có mọi dấu hiệu của một hệ sinh thái mới khác biệt. Vùng bẫy đang tạo ra một ốc đảo sự sống ở Maldives và nhiều khả năng nó cũng tồn tại ở những hòn đảo đại dương khác và cả trên các sườn dốc lục địa", Alex Rogers, nhà sinh vật biển tại Đại học Oxford, nhận định.
Một tiểu hành tinh khổng lồ có đường kính khoảng 305 - 740 m sẽ bay gần Trái Đất vào ngày 1/11.
Mô phỏng tiểu hành tinh bay qua Trái Đất. Ảnh: iStock
Tiểu hành tinh mang tên 2022 RM4 di chuyển ở tốc độ 84.490 km/h, dự kiến bay qua Trái Đất ở khoảng cách 2,3 triệu km. So với nó, Mặt Trăng cách Trái Đất 384.472 km và hành tinh gần nhất là sao Kim nằm cách 61 triệu km.
Dù bay tương đối gần Trái Đất về mặt thiên văn, khả năng tiểu hành tinh này đâm vào Trái Đất rất nhỏ. Các nhà nghiên cứu đã đo quỹ đạo của 2022 RM4 và xác định nó sẽ lao sượt qua Trái Đất vào tháng 11/2095 nhưng vẫn ở khoảng cách 0,01 AU (tương đương gần 1,5 triệu km). Những cơ sở mới như Đài quan sát Vera Rubin ở Chile có thể giúp hoàn thiện khảo sát về thiên thạch lớn ở gần Trái Đất như 2022 RM4. Theo Gretchen Benedix, nhà địa chất học vũ trụ ở Đại học Curtin, tỷ lệ tiểu hành tinh như 2022 RM4 đâm vào Trái Đất là 1/100.000 năm, tùy theo kích thước.
Ảnh hưởng từ va chạm với tiểu hành tinh rất đa dạng dựa theo kích thước, tốc độ và góc đâm xuống mặt đất. Trong trường hợp tiểu hành tinh kích thước như 2022 RM4, thiệt hại ở mức khổng lồ. Tiểu hành tinh đá 740 m sẽ đâm vào bề mặt Trái Đất với năng lượng tương đương 30.000 triệu tấn thuốc nổ TNT, tạo ra miệng hố rộng 10 km và động đất 7,6 độ.
Tiểu hành tinh là những thiên thạch nhỏ quay quanh mặt Trời. NASA ước tính có 1.113.527 tiểu hành tinh trong hệ Mặt Trời. Chúng quay quanh Mặt Trời và tập trung ở vành đai tiểu hành tinh giữa sao Hỏa và sao Mộc. Tuy nhiên, do tương đối nhỏ, tiểu hành tinh dễ chịu tác động của trọng lực và có quỹ đạo giao cắt với quỹ đạo của các hành tinh, theo Jay Tate, giám đốc đài quan sát Spaceguard Center ở Anh. Phần lớn tiểu hành tinh có kích thước từ 10 m đến 529 km.