Đập Kallanai đóng vai trò quan trọng trong quản lý nguồn nước bền vững phục vụ sản xuất nông nghiệp suốt 2.000 năm qua.
Đập Kallanai ở bang Tamil Nadu ngày nay. Ảnh: Elamaran Elaaa
Đập Kallanai, hay còn gọi là Grand Anicut, là một kỳ quan kỹ thuật ở miền nam Ấn Độ. Nằm dọc sông Kaveri River ở bang Tamil Nadu, công trình này là minh chứng bền bỉ cho bàn tay khéo léo của các kỹ sư cổ đại, có niên đại hai thiên niên kỷ, theo Ancient Origins.
Là công trình do vua Karikalan của vương triều Chola khởi xướng vào khoảng thế kỷ 2, đập Kallanai được xây dựng để chế ngự nguồn nước dồi dào của sông Kaveri nhằm phục vụ sản xuất nông nghiệp. Tên gọi Kallanai bắt nguồn từ 'alam and anai' trong tiếng Tamil, có nghĩa là "đá" và "đập". Không sử dụng vật liệu xây dựng hiện đại như vữa, công trình biểu tượng này thể hiện khả năng ứng dụng kỹ thuật phức tạp của người Chola.
Mục đích chính của con đập là chuyển hướng dòng nước sông Kaveri vào vùng châu thổ màu mỡ, thúc đẩy mạng lưới tưới tiêu trải rộng biến đổi đất đai khô cằn thành xanh tốt. Quá trình lên kế hoạch và xây dựng đập nước tỉ mỉ của người Chola đóng vai trò thiết yếu giúp tăng cường năng suất nông nghiệp, qua đó góp phần quan trọng vào nền kinh tế hưng thịnh trong vùng.
Đập Kallanai trải dài khoảng 329 m và rộng 20 m. Con đập bao gồm 3 đoạn riêng biệt tên Kudamuruti, Periyar và Viranam, mỗi đoạn được thiết kế để phục vụ một chức năng riêng trong điều phối dòng nước. Đáng chú ý là sự vắng mặt của vữa trong xây dựng, công trình chỉ dựa vào độ chính xác của những khối đá đặt xen kẽ để chống chịu lực tác động của dòng sông.
Trải qua sự tàn phá của thời gian, đập Kallanai không chỉ là công trình bền vững mà còn tiến hóa qua nhiều thế kỷ bảo trì và tân trang của những triều đại tiếp theo. Ngày nay, nó tiếp tục là một bộ phận thiết yếu của nền nông nghiệp trong vùng, đảm bảo nguồn cung cấp nước đều đặn để gieo trồng hoa màu. Đây là một trong những con đập lâu đời nhất thế giới vẫn được sử dụng tích cực và thường xuyên.
Siêu máy tính JUPITER đặt tại Đức có tiềm năng trở thành siêu máy tính nhanh nhất thế giới cho ứng dụng AI.
Trung tâm siêu máy tính Jülich, nơi JUPITER được lắp đặt. Ảnh: Trung tâm siêu máy tính Jülich
Châu Âu đang chuẩn bị chế tạo siêu máy tính exascale đầu tiên mang tên JUPITER, có thể trở thành cỗ máy nhanh và mạnh nhất thế giới, Interesting Engineering hôm 29/12 đưa tin. JUPITER sẽ mở đường cho những phát hiện khoa học và sáng tạo chưa từng có trong các lĩnh vực từ biến đổi khí hậu tới vật lý lượng tử, thông qua thực hiện phép tính mà rất ít máy tính ở Mỹ và Trung Quốc hiện nay có thể làm được.
Siêu máy tính này hướng tới đạt thành tựu đột phá ở châu Âu bằng cách tiến hành một tỷ tỷ phép tính số học mỗi giây. Công suất tính toán ở cấp đặc biệt này sẽ cung cấp phương hướng mới cho các mô phỏng khoa học và thúc đẩy thành tựu mang tính cách mạng trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo.
Siêu máy tính exascale có thể thực hiện một tỷ tỷ phép tính mỗi giây, tương đương công suất tính toán của 10.000 chiếc laptop gộp lại. Hiện nay, chỉ có hai siêu máy tính exascale được công nhận chính thức trên thế giới là Frontier ở Phòng thí nghiệm quốc gia Oak Ridge tại Tennessee và Aurora ở Phòng thí nghiệm quốc gia Argonne tại Illinois. Tuy nhiên, Trung Quốc có thể sở hữu ít nhất 2 cỗ máy exascale chưa được kiểm tra và xếp hạng trong danh sách 500 siêu máy tính mạnh nhất thế giới.
JUPITER (Joint Undertaking Pioneer for Innovative and Transformative Exascale Research) sẽ được chế tạo ở Trung tâm siêu máy tính Jülich tại Đức bởi Liên doanh máy tính hiệu suất cao châu Âu (EuroHPC JU), dự án cộng tác giữa Liên minh châu Âu và các công ty tư nhân. Trong một cuộc phỏng vấn gần đây, giáo sư Thomas Lippert, giám đốc Trung tâm siêu máy tính Jülich, cho biết JUPITER có tiềm năng trở thành siêu máy tính nhanh nhất thế giới cho ứng dụng AI, với hơn 90 exaflop ở 8 bit. Exaflop là đơn vị đo sức mạnh tính toán tổng hợp của các hệ thống máy tính. Mỗi exaflop tương đương một tỷ tỷ phép tính mỗi giây.
JUPITER sẽ có thiết kế dạng module độc đáo bao gồm hai bộ phận chính là module Booster và module Cluster. Module Booster sẽ sử dụng công nghệ tiên tiến của NVIDIA (gần 24.000 NVIDIA GH200 GPU) để cung cấp công suất tính toán cho ứng dụng trí tuệ nhân tạo và mô phỏng, như huấn luyện mô hình AI có thể tạo ra hình ảnh thực tế và văn bản.
Module Cluster sẽ sử dụng bộ xử lý Rhea mới của SiPearl, sản xuất tại châu Âu, để giải quyết nhiệm vụ phức tạp đòi hỏi băng thông bộ nhớ cao. Hai module sẽ được kết hợp bởi Eviden vào nền tảng BullSequana XH3000 tiết kiệm năng lượng và làm mát bằng chất lỏng của họ, vận hành như một siêu máy tính nhất quán bởi hệ điều hành ParaStation Modulo của ParTec. JUPITER là kết quả hợp tác giữa ParTec, Eviden, SiPearl, và NVIDIA với cộng đồng khoa học châu Âu. Đây sẽ là siêu máy tính exascale đầu tiên ở châu Âu.
Quá trình lắp đặt JUPITER sẽ bắt đầu vào đầu năm 2024. Người sử dụng có thể thử nghiệm và chuẩn bị cho hệ thống theo chương trình JUPITER Early Access, cho phép hợp tác chặt chẽ giữa các bên liên quan để chế tạo và tối ưu hóa phiên bản tốt nhất có thể của hệ thống cho cộng đồng khoa học.
Philippe Notton, giám đốc điều hành SiPearl, nhận định cỗ máy có tiềm năng đứng đầu danh sách 500 siêu máy tính nếu không có đối thủ nào nhanh hơn. Theo Notton, thứ hạng cuối cùng của JUPITER sẽ phụ thuộc vào hiệu suất của những viện vận hành cỗ máy và điểm đánh giá phần cứng. Tuy nhiên, ông cũng nhấn mạnh việc cắt giảm tiêu thụ năng lượng rất quan trọng, bởi chi phí chạy JUPITER trong 3 năm vào khoảng 553 triệu USD, bao gồm ước tính 110 triệu USD chi phí tiền điện hàng năm.
Với bộ chuyển hướng tungsten mới, các nhà nghiên cứu hy vọng có thể vận hành lò phản ứng nhiệt hạch trong 300 giây ở 100 triệu độ C vào năm 2026.
Lõi của lò phản ứng KSTAR ở Hàn Quốc. Ảnh: KFE
KSTAR, Mặt Trời nhân tạo của Viện Năng lượng nhiệt hạch Hàn Quốc (KFE) hoàn thành một sửa đổi quan trọng giúp thiết bị hoạt động lâu hơn ở nhiệt độ cao hơn, Interesting Engineering hôm 29/12 đưa tin. KSTAR là chữ viết tắt của Nghiên cứu cao cấp lò tokamak siêu dẫn Hàn Quốc, một lò phản ứng nhiệt hạch tiên tiến xây dựng vào năm 2007. Sửa đổi bao gồm lắp đặt bộ chuyển hướng bằng tungsten mới phát triển, cho phép KSTAR vận hành trong thời gian kéo dài và duy trì plasma ở nhiệt độ cao hơn 100 triệu độ C, theo thông báo của KFE.
Nhóm nghiên cứu cho biết họ hoàn thành một thí nghiệm plasma với lò phản ứng trang bị bộ chuyển hướng mới vào ngày 21/12. Năm 2021, KSTAR từng lập kỷ lục mới khi chạy ở một triệu độ C và duy trì plasma siêu nóng trong 30 giây.
Phản ứng nhiệt hạch giống như quá trình xảy ra ở lõi Mặt Trời, tạo ra năng lượng dồi dào. Các nhà nghiên cứu sử dụng tokamak, lò phản ứng đặc biệt trên Trái Đất với nam châm cực mạnh, để điều khiển plasma siêu nóng. Plasma nóng hàng triệu độ C này khiến nguyên tử va chạm và tạo ra hạt nhân nặng hơn, giải phóng nhiều năng lượng bền vững, có thể giúp con người sử dụng ít nhiên liệu hóa thạch hơn và đối phó biến đổi khí hậu.
Bộ chuyển hướng là một bộ phận quan trọng nằm ở đáy buồng chân không trong thiết bị nhiệt hạch từ. Nó đóng vai trò thiết yếu giúp xử lý khí thải phun ra và tạp chất từ lò phản ứng, đồng thời chịu áp lực nhiệt bề mặt lớn nhất. Theo nhóm nghiên cứu, phát triển và triển khai bộ chuyển hướng chịu nhiệt rất cần thiết do chức năng chủ chốt của nó.
Ban đầu, KSTAR sử dụng bộ chuyển hướng carbon. Tuy nhiên, hiệu suất tăng và thời gian hoạt động kéo dài ở nhiệt độ 100 triệu độ C vượt quá giới hạn thông lượng nhiệt của bộ chuyển hướng carbon. Điều đó thúc đẩy nhóm nghiên cứu phát triển bộ chuyển hướng tungsten. Kết quả là họ hoàn thành nguyên mẫu bộ chuyển hướng tungsten đầu tiên vào năm 2021. Sau đó, lò phản ứng trải qua quá trình lắp đặt kỹ lưỡng kéo dài hơn một năm, bắt đầu vào tháng 9/2022.
Bộ chuyển hướng mới lắp đặt là một hệ thống phức tinh vi bao gồm 64 hộp làm từ tungsten đơn khối. Những hộp này bao bọc toàn bộ phần đáy buồng chân không, hình thành một rào cản chắc chắn chịu áp lực nhiệt trong môi trường nhiệt hạch. Thiết kế tiên tiến mới giải quyết thách thức về nhiệt mà bộ chuyển hướng carbon trước đây gặp phải. Theo nhóm nghiên cứu, nó phản ánh một bước tiến quan trọng giúp tăng cường hiệu suất và tuổi thọ của lò KSTAR ở nhiệt độ cực hạn.
Nhờ các đặc điểm nổi trội bao gồm điểm nóng chảy cao, tungsten trở thành vật liệu phù hợp nhất cho bộ chuyển hướng. Nhóm nghiên cứu cho biết lựa chọn vật liệu đem lại nhiều cải tiến đáng kể, với giới hạn thông lượng nhiệt tăng gấp đôi so với bộ chuyển hướng carbon, đạt mức 10 MW/m2.
Thí nghiệm plasma bên trong bộ chuyển hướng tungsten mới lắp đặt ở KSTAR dự kiến kéo dài tới tháng 2/2024. Mục tiêu cơ bản bao gồm kiểm nghiệm điều kiện hoạt động ổn định bên trong bộ chuyển hướng tungsten và tái tạo thành công plasma ở nhiệt độ 100 triệu độ C. Với nâng cấp mới, nhóm nghiên cứu hy vọng có thể tăng thời gian hoạt động của lò phản ứng lên 300 giây ở nhiệt độ ion trên 100 triệu độ C vào cuối năm 2026.
Các nhà nghiên cứu phát hiện bức tường dài 405 km dọc biên giới Mông Cổ - Trung Quốc dường như được xây dựng vội vàng để ngăn quân xâm lược.
Vị trí của vòng cung Mông Cổ (đường màu đỏ). Ảnh: Field Archaeology
Một đoạn của Vạn lý Trường thành Trung Quốc trải dài tới Mông Cổ được phân tích lần đầu tiên, cho phép các nhà nghiên cứu đưa ra một số suy đoán về lịch sử và chức năng của công trình đồ sộ này. Trải dài hơn 405 km, đoạn tường có biệt danh là "Vòng cung Mông Cổ" do lộ trình uốn cong của nó. Nghiên cứu về bức tường đặc biệt được công bố trên tạp chí Field Archaeology, IFL Science hôm 28/12 đưa tin.
Chạy gần như song song với biên giới giữa Trung Quốc và Mông Cổ, rào chắn cổ đại kéo dài từ tỉnh Sukhbaatar tới tỉnh Dornod ở đông bắc Mông Cổ, nơi nhiệt độ thường giảm xuống -25 độ C. Bất chấp quy mô lớn và độ phức tạp, giới nghiên cứu chưa biết chính xác công trình được xây dựng khi nào, ai đã xây nó với mục đích là gì.
Bao gồm một bức tường đất, một đường rãnh và 34 cấu trúc, bức tường và quá trình xây dựng nó được nhắc tới trong vài tài liệu lịch sử từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 13, dù các nhà nghiên cứu hiện nay chưa thể cung cấp niên đại chuẩn xác hơn. Nhận thấy vòng cung Mông Cổ hầu như không được chú ý trong những văn bản học thuật, nhóm nghiên cứu đến từ Đại học Do Thái Jerusalem ở Israel kết hợp ảnh vệ tinh, bản đồ của Trung Quốc và Liên Xô cùng với quan sát thực địa trực tiếp để phân tích bức tường và cấu trúc kèm theo.
Phát hiện đáng chú ý nhất của họ là vòng cung Mông Cổ chứa nhiều khe hở lớn, chứng tỏ nó được xây vội vã và do đó chưa bao giờ được gia cố đầy đủ. "Một cách giải thích khả thi cho những khe hở, điểm yếu dễ hư tổn trong hệ thống, là vòng cung Mông Cổ được xây gấp rút vào cuối thời nhà Kim như một lớp phòng ngự ngăn quân Mông Cổ xâm lược", nhóm nghiên cứu cho biết. Dù các nhà nghiên cứu không chắc chắn về niên đại của bức tường, nhiều khả năng quá trình xây dựng trùng với đợt quân Mông Cổ chinh phạt nhà Kim vào khoảng năm 1.200. Tuy nhiên, họ nhấn mạnh đây chỉ là giả thuyết.
Một giả thuyết khác mà nhóm nghiên cứu đưa ra là vòng cung Mông Cổ không phải nhằm phục vụ chức năng quân sự mà gắn liền với việc kiểm soát sự đi lại của cư dân và đàn gia súc, có thể liên quan tới thu thuế. Bằng chứng ủng hộ giả thuyết này đến từ thực tế bức tường không phải rào chắn tốt, nhiều trạm gác nằm ở vị trí kém hiệu quả, cung cấp tầm nhìn kém đối với khu vực xung quanh.
Các nhà nghiên cứu đang lên kế hoạch tiến hành khai quật thêm một số cấu trúc liên quan tới vòng cung Mông Cổ để xác định thời điểm xây dựng và công dụng của bức tường.
Nam PhiLợn bướu bố chạy ra khỏi hang trước tiên, trong khi lợn bướu mẹ và 2 con non không kịp thoát khỏi móng vuốt của báo hoa mai.
Báo hoa mai rình bắt gia đình lợn bướu. Video: Caspar Siebel
Nhiếp ảnh gia Caspar Siebel ghi hình chuyến săn khác thường của báo hoa mai trong khu bảo tồn thiên nhiên Sabi Sand, Nam Phi, Latest Sightings hôm 27/12 đưa tin. Siebel cùng bố và hướng dẫn viên đang tham quan khu bảo tồn bằng xe thì phát hiện báo hoa mai đi dọc theo con đường mòn. Nhận thấy con vật đang trong trạng thái đi săn, nhóm tham quan quyết định bám theo. Sau khoảng nửa tiếng, họ thấy báo hoa mai đến gần hang của lợn bướu.
"Báo hoa mai đi quanh hang và gây náo động ở lối thoát hang phía đối diện chúng tôi. Nó cố gắng dụ lợn bướu chạy ra lối thoát gần phía chúng tôi nhất, và đó chính xác là những gì đã xảy ra. Lợn bướu bố chui ra đầu tiên rồi phóng đi nhanh nhất có thể về phía những bụi rậm", Siebel kể lại.
Bầy lợn bướu con cố gắng chạy theo bố nhưng không kịp. Khi con non đầu tiên chui ra, báo hoa mai đã ở đó và nhanh chóng vồ lấy. Con non thứ hai cũng lao ra nhưng khi thấy kẻ săn mồi đang ngoạm anh chị em của mình trong miệng, có vẻ nó đông cứng vì sợ hãi, Siebel nhận định.
Báo hoa mai thường không muốn mạo hiểm để mất con mồi và sẽ tha chúng lên cây ngay khi bắt được. Tuy nhiên, lần này mọi chuyện không diễn ra như vậy. Báo hoa mai thả con mồi đầu tiên xuống vì biết nó bị thương quá nặng, không thể đi đâu, sau đó nhanh chóng tóm lấy con non thứ hai. Tiếp đó, lợn bướu mẹ cũng chọn sai thời điểm để chui ra từ lối phía sau. Báo hoa mai lúc này đã hạ gục cả hai con non và ngay khi nghe thấy tiếng lợn bướu mẹ, kẻ đi săn bỏ con non thứ hai lại rồi nhanh chóng lao tới vồ con mồi cuối cùng.
Báo hoa mai (Panthera pardus) phân bố ở châu Phi và châu Á. Chúng là những kẻ săn mồi cơ hội, thường đi săn dưới mặt đất hoặc trên cây. Báo hoa mai rất giỏi leo trèo. Ban ngày, chúng dành phần lớn thời gian để nghỉ ngơi dưới những tảng đá hoặc ở nơi râm mát giữa các cành cây. Ban đêm, chúng thường đi săn thay vì ngủ. Con mồi của chúng gồm linh dương, hươu, lợn rừng, thỏ, cá, chim và một số sinh vật khác.
Lợn bướu thông thường (Phacochoerus africanus) thuộc họ Lợn (Suidae), phân bố chủ yếu ở khu vực châu Phi hạ Sahara. Dù có vẻ ngoài dữ tợn, chúng chỉ ăn thực vật. Chúng có khả năng thích nghi tốt và có thể chịu khát trong thời gian dài. Thời gian mang thai của lợn bướu cái kéo dài 5-6 tháng. Chúng thường đẻ 4 con một lứa hoặc ít hơn. Lợn bướu cái sẽ cho con bú trong khoảng 4 tháng.
MỹĐộng cơ tên lửa kích nổ xoay (RDRE) in 3D của NASA hoạt động trong thời gian kỷ lục, có thể thay đổi các nhiệm vụ bay vào không gian sâu.
Động cơ tên lửa kích nổ xoay in 3D của NASA chạy thử thành công. Video: NASA
NASA đang thúc đẩy công nghệ tên lửa mới mang tính cách mạng hóa ở Trung tâm bay vũ trụ Marshall tại Huntsville, Alabama. Các kỹ sư tại cơ sở khai hỏa Động cơ tên lửa kích nổ xoay (RDRE) in 3D trong thời gian kỷ lục 251 giây với lực đẩy 2.631 kg, New Atlas hôm 28/12 đưa tin.
Trong hơn 6 thập kỷ, NASA dựa vào tên lửa hóa học để phóng các phương tiện vào vũ trụ. Tên lửa hóa học đang hoạt động ở ngưỡng gần với giới hạn lý thuyết từ năm 1942. Ngoài ra, phần lớn tên lửa nhiên liệu lỏng không thay đổi về thiết kế cơ bản từ thời tên lửa V2 của Đức. Để tăng thêm hiệu suất của động cơ tên lửa, NASA đang xem xét một thiết kế khác biệt với RDRE.
Thay vì dùng buồng đốt, trong đó nhiên liệu và oxy được nạp vào để cháy ở tốc độ nhỏ hơn vận tốc âm thanh, ở RDRE, chúng được đưa vào khe giữa hai xylanh đồng trục. Khi hỗn hợp này bắt lửa, chúng hình thành phản ứng và sóng xung kích. Sóng đó di chuyển bên trong khe ở tốc độ siêu thanh, sản sinh nhiều nhiệt và áp suất hơn. Nếu có thể duy trì quá trình đốt, nó sẽ tạo ra lực đẩy tên lửa hiệu quả hơn hẳn. Trên thực tế, NASA cho biết thử nghiệm mới nhất đủ mạnh và lâu để đáp ứng những yêu cầu nhằm hạ cánh tàu đổ bộ hoặc đốt động cơ trong không gian sâu cho nhiệm vụ tới Mặt Trăng hoặc sao Hỏa.
Tuy nhiên, NASA nhấn mạnh công nghệ vẫn chưa hoàn thiện. Những thử nghiệm khai hỏa kiểu này rất cần thiết để tăng quy mô buồng đốt cho các mức lực đẩy khác nhau. Nếu thành công, RDRE có thể hoạt động trên trạm đổ bộ, tầng đẩy bên trên và cung cấp lực đẩy ngược để đưa thiết bị lớn lên bề mặt sao Hỏa.
"RDRE cho phép tạo ra bước tiến khổng lồ trong hiệu suất thiết kế", Thomas Teasley, kỹ sư thiết bị buồng đốt ở Marshall chia sẻ. "Nó chứng minh chúng ta đang tiến gần hơn đến chế tạo hệ thống đẩy nhẹ giúp đưa nhiều hàng hóa và thiết bị hơn vào không gian sâu, một phần thiết yếu trong kế hoạch bay tới Mặt Trăng và sao Hỏa của NASA".
Hàn QuốcHệ thống gồm nhiều khối nhà, mỗi khối có hình dạng giống container vận chuyển và đóng vai trò là một phòng đơn trong tòa nhà lớn.
Một khu ký túc xá xây dựng theo hệ thống module mới. Ảnh: Viện Công nghệ Xây dựng và Kỹ thuật Dân dụng Hàn Quốc
Việc xây toàn bộ tòa nhà tại công trường có thể tốn nhiều thời gian và chi phí. Do đó, nhiều công ty tìm đến những cấu trúc đúc sẵn được chế tạo trước tại nhà máy. Nhóm chuyên gia tại Viện Công nghệ Xây dựng và Kỹ thuật Dân dụng Hàn Quốc, dẫn đầu bởi tiến sĩ Seok-Ho Lim và Joon-Soo Chung, nâng cấp phương pháp này với việc phát triển hệ thống xây nhà mới theo dạng module, New Atlas hôm 28/12 đưa tin.
Hệ thống gồm nhiều khối nhà với hình dạng giống container vận chuyển, đóng vai trò là các phòng đơn trong một tòa nhà lớn hơn. Mỗi khối gồm hai module: Module bên trong gồm tường lót trong, sàn lót trong, trần nhà, và module PC gồm hai bức tường ngoài chịu tải và sàn ngoài chịu tải.
Khi chế tạo xong, cả hai loại module đều được vận chuyển tới công trường. Tại đây, cần cẩu sẽ đưa module bên trong vào trong module PC tương ứng, tạo thành khối hoàn chỉnh. Sau đó, cần cẩu tiếp tục nâng từng khối lên đặt vào đúng vị trí trên nền bêtông, xếp chồng khối này lên trên khối kia theo đúng kiến trúc. Cuối cùng, nhóm công nhân sẽ bổ sung mái nhà, cầu thang và hành lang liên kết các khối để hoàn thiện công trình. Các khối này chiếm khoảng 70% - 80% toàn bộ tòa nhà.
Quá trình lắp ráp tại chỗ không chỉ tốn ít thời gian và công sức hơn so với những phương pháp xây dựng truyền thống mà còn tạo ra ít tiếng ồn, bụi và chất thải hơn. Ngoài ra, khi tòa nhà không còn được sử dụng, các khối riêng lẻ có thể được dỡ ra và dùng cho dự án khác. Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng và Giao thông Hàn Quốc gần đây đã công bố kế hoạch sử dụng hệ thống này để xây nhà cho thuê trong vùng đô thị Seoul và các thị trấn mới ở ngoại thành.
"Phương pháp xây dựng module cung cấp giải pháp hiệu quả để xử lý những vấn đề về môi trường trong ngành xây dựng và tình trạng thiếu nhà ở. Công nghệ này giúp giảm đáng kể chi phí xây dựng, giảm nhu cầu thực hiện phần lớn hoạt động tại công trường, dẫn đến thời gian xây dựng ngắn hơn so với những phương pháp xây dựng bêtông truyền thống", Lim cho biết.
Cơ quan Quản lý Hạt nhân Nhật Bản hôm 27/12 dỡ bỏ lệnh cấm với nhà máy điện hạt nhân Kashiwazaki-Kariwa của Tập đoàn Điện lực Tokyo.
Các lò phản ứng số 6 và số 7 của nhà máy điện hạt nhân Kashiwazaki-Kariwa vào tháng 4/2021. Ảnh: Kyodo
Nhà máy điện hạt nhân Kashiwazaki-Kariwa, cách thủ đô Tokyo 250 km về phía bắc, tiến gần hơn đến việc hoạt động trở lại sau khi Cơ quan Quản lý Hạt nhân (NRA) của Nhật Bản dỡ bỏ lệnh cấm đặt ra hai năm trước. Đây là nhà máy điện hạt nhân lớn nhất thế giới với 7 lò phản ứng và tổng công suất 8.212 MW. Đơn vị vận hành nhà máy, Công ty Điện lực Tokyo (TEPCO), tiếp tục nỗ lực để đưa nhà máy hoạt động trở lại, nhưng vẫn chưa chắc chắn thời điểm vì họ cũng cần được chính quyền địa phương chấp thuận.
Nằm trên khu đất rộng 4,2 km2 ở tỉnh Niigata, nhà máy điện hạt nhân Kashiwazaki-Kariwa là cơ sở lò phản ứng nước sôi tiên tiến (ABWR) đầu tiên trên thế giới, thành lập vào năm 1985. Suốt quá trình hoạt động, nhà máy Kashiwazaki-Kariwa vài lần phải đóng cửa một phần hoặc toàn bộ do các vấn đề kỹ thuật và động đất trong vùng. Tuy nhiên, sau thảm họa nhà máy điện hạt nhân Fukushima năm 2011, nhà máy Kashiwazaki-Kariwa phải ngừng hoạt động suốt một thời gian dài.
Năm 2017, các lò phản ứng số 6 và số 7 của nhà máy Kashiwazaki-Kariwa vượt qua quá trình sàng lọc an toàn cần thiết của NRA để khởi động lại. Tuy nhiên, vào năm 2018 và cả sau đó, hàng loạt sai sót trong các biện pháp chống xâm nhập được phát hiện, bao gồm trục trặc trong thiết bị phát hiện kẻ xâm nhập và sự cố một nhân viên TEPCO vào phòng điều khiển trung tâm bằng thẻ nhận dạng của một nhân viên khác.
NRA ban hành lệnh cấm vào tháng 4/2021, cấm vận chuyển nhiên liệu hạt nhân trong nhà máy. Sau hơn 2 năm, NRA dỡ bỏ lệnh cấm và khẳng định sẽ tiếp tục giám sát chặt chẽ xem liệu các biện pháp cải thiện của TEPCO có bị sao nhãng hay không.
Khi thế giới hướng đến giảm sử dụng nhiên liệu hóa thạch, một số chuyên gia năng lượng dự đoán sự trở lại của điện hạt nhân sẽ giúp giải quyết vấn đề nguồn cung không liên tục của các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời và gió. Nhật Bản, quốc gia đang hướng tới mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050, cũng cần giảm phụ thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu và có thể tận dụng cơ sở hạ tầng sẵn có để tăng nguồn cung năng lượng.
Khu công nghệ cao TP HCM hợp tác với Ansys - công ty chuyên cung cấp phần mềm thiết kế, kiểm định chip trong 3 năm, giúp đào tạo nhân lực vi mạch.
Nội dung trong chương trình hợp tác hai bên ký kết sáng 28/12 với mục tiêu phát triển đội ngũ nhân lực vi mạch tại Việt Nam. Như vậy Ansys trở thành đối tác thứ ba sau Synopsys và Cadence (Mỹ) cung cấp phần mềm thiết kế chip bản quyền cho Khu công nghệ cao TP HCM (SHTP) với giá trị hàng chục triệu USD.
Ông Rafiq Somali, Phó chủ tịch Ansys Khu vực Ấn Độ Dương và Nam Á cho biết, các công cụ thiết kế và mô phỏng chip hiện đại được cung cấp sẽ giúp đội ngũ nhân lực Việt Nam đẩy nhanh quá trình thiết kế, sáng tạo cho các sản phẩm công nghệ cao thế hệ mới.
Ông cam kết hỗ trợ SHTP hiện thực hóa tầm nhìn phát triển mạnh nhân lực vi mạch trong giai đoạn tới. Từ nguồn nhân lực này, Ansys sẽ hỗ trợ phát triển thành các dự án khởi nghiệp về thiết kế chip trong một số lĩnh vực như hàng không vũ trụ, năng lượng, chăm sóc sức khỏe, viễn thông...
Ông Rafiq Somali (giữa) thăm quan Trung tâm đào tạo và thiết kế vi mạch (ESC) trong Khu công nghệ cao TP HCM. Ảnh: Vĩnh Hà
Đánh giá cao sự hợp tác, Phó chủ tịch UBND TP HCM Võ Văn Hoan chia sẻ, việc triển khai hoạt động đào tạo cho sinh viên, giảng viên và liên kết viện trường, doanh nghiệp là hướng đi đúng đắn, phù hợp định hướng phát triển của Thành phố, tập trung phát triển các ngành công nghệ cao, trong đó có vi mạch bán dẫn. Lãnh đạo TP HCM cam kết tạo điều kiện tối đa về cơ sở vật chất, chính sách hỗ trợ, nguồn nhân lực... phục vụ cho các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bán dẫn tại thành phố.
Ông Nguyễn Anh Thi, Trưởng Ban quản lý SHTP cho biết các đối tác cung cấp bản quyền thiết kế chip giúp SHTP tổ chức đào tạo nhân lực. Thời gian qua đã có 58 học viên là giảng viên 13 trường đại học và 54 sinh viên được đào tạo kỹ năng thiết kế vật lý chip bán dẫn theo đặt hàng của doanh nghiệp. Sắp tới chương trình sẽ mở rộng tổ chức đào tạo cho sinh viên, giảng viên đại học ở khu vực phía Bắc nhằm phát triển nhân lực thiết kế vi mạch.
Theo ông Thi việc hợp tác giúp sinh viên, giảng viên tiếp cận công nghệ và phương pháp mới nhất trong mô phỏng kỹ thuật, cũng như tích lũy kinh nghiệm và nâng cao kỹ năng thiết kế chip. Việc hợp tác được cụ thể hóa thông qua hoạt động đào tạo tại Trung tâm đào tạo điện tử, vi mạch bán dẫn (ESC) do SHTP thành lập hồi tháng 10. ESC là mô hình hợp tác giữa SHTP và Sun Edu chuyên tổ chức đào tạo nhân lực thiết kế chip với nhiều chuyên gia từng làm việc tại Silicon Valley.
MỹCông ty khởi nghiệp Forward thiết kế buồng khám Carepod hoạt động nhờ trí tuệ nhân tạo, có thể kiểm tra sức khỏe và gửi dữ liệu để bác sĩ phân tích từ xa.
Các nhà nghiên cứu phát hiện một cô gái Ai Cập trẻ ở thời cổ đại, mang thai đôi và chết trong lúc sinh đứa trẻ đầu tiên.
Ảnh chụp cắt lớp phôi thai trong bụng xác ướp. Ảnh: International Journal of Osteoarchaeology
Một nhóm chuyên gia phân tích xác ướp của thiếu nữ chết khi sinh con ở Ai Cập cổ đại, hé lộ người mẹ trẻ qua đời trong quá trình đẻ cặp sinh đôi. Quá trình sinh nở kết thúc đáng buồn khi đầu của em bé thứ nhất mắc kẹt trong cổ tử cung, dẫn tới cái chết của cả hai đứa trẻ và người mẹ. Kết quả nghiên cứu được công bố trên tạp chí International Journal of Osteoarchaeology, IFL Science hôm 26/12 đưa tin.
Nhóm nghiên cứu đứng đầu là Francine Margolis ở khoa Nhân chủng học, Đại học George Washington, suy đoán cô gái chết ở độ tuổi 14 - 17 tuổi. Xác ướp của cô gái được khai quật vào năm 1908 tại nghĩa trang El Bagawat trên bán đảo Kharga, Ai Cập. Ghi chép thực địa khi đó cho biết thi thể cô gái được tìm thấy với phôi thai và nhau thai giữa hai chân, dẫn tới kết luận người mẹ trẻ chết do biến chứng sinh sản.
Kiểm tra lại xác ướp sau hơn một thế kỷ, Margolis và cộng sự tiến hành chụp cắt lớp vi tính (CT) thi thể để xác định chính xác nguyên nhân tử vong. Điều gây bất ngờ cho họ là ảnh chụp hé lộ sự tồn tại của phôi thai thứ hai bên trong khoang ngực của người phụ nữ, chứng tỏ cô mang thai đôi. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu nhận thấy đứa trẻ đặt giữa hai chân người phụ nữ bị thiếu phần đầu. Khi kiểm tra kỹ hơn, họ nhận thấy đầu đứa trẻ bị mắc trong khung chậu của người mẹ. Cách giải thích khả thi nhất cho trường hợp này là em bé bị sinh ngược, tức là phần chân ra trước thay vì phần đầu. Ở tư thế đó, cơ thể đứa trẻ khó ra qua cổ tử cung hơn, thậm chí mắc kẹt.
Đối với phôi thai thứ hai, các nhà nghiên cứu nghi ngờ người ướp xác có thể không biết cô gái mang thai đôi, do đó không lấy ra khỏi cơ thể người mẹ trước khi ướp xác. Khi cơ hoành của xác ướp phân hủy, phôi thai chưa chào đời có thể dịch chuyển từ tử cung lên khoang ngực.
"Kết quả kiểm tra người mẹ và phôi thai song sinh xác nhận lại mức độ nguy hiểm của quá trình sinh nở, đặc biệt ở thời cổ đại", nhóm nghiên cứu kết luận. Đặc biệt, sinh đôi là điều không mong muốn trong xã hội Ai Cập xa xưa, thường gắn liền với bùa chú và lời nguyền.
Một số loài động vật có thể rất khó dự đoán và gây bất ngờ cho các nhà nghiên cứu với hành vi kỳ lạ của chúng.
Kangaroo dìm chết chó nhà
Con kangaroo tấn công chó của Mick Moloney. Video: 9 news
Hồi tháng 10/2023, một người đàn ông tên Mick Moloney giải cứu chó cưng tên Hutchy trên sông Murray ở Victoria, Australia, sau khi nó bị một con kangaroo xám miền Đông (Macropus giganteus) ấn đầu xuống nước. Moloney đưa Hutchy lên bờ an toàn nhưng cũng trúng cú đấm từ con kangaroo hung dữ.
Đây không phải lần đầu tiên kangaroo xử sự như vậy đối với chó nhà. Loài thú có túi này có thể đang tìm cách bảo vệ an toàn cho chính nó. Kangaroo coi chó là mối đe dọa bởi chúng rất giống chó hoang, một trong những kẻ thù nguy hiểm nhất của chúng, theo Euan Ritchie, giáo sư sinh thái học và bảo tồn động vật hoang dã ở Đại học Deakin tại Australia. Theo nhà nghiên cứu, nhảy xuống nước là cách kangaroo học được để sống sót trước đòn tấn công của chó hoang, động vật ăn thịt bản xứ hàng đầu cùng tồn tại với chúng suốt hàng nghìn năm.
Cá sấu trinh sản
Các nhà nghiên cứu ghi nhận trường hợp trinh sản đầu tiên ở cá sấu hồi tháng 6 năm nay. Một con cá sấu Mỹ cái (Crocodylus acutus) đẻ ổ trứng ở công viên bò sát tại Costa Rica sau 16 năm sống đơn độc.
Dạng sinh sản vô tính này chưa bao giờ được bắt gặp ở cá sấu trước đây, dù từng xảy ra ở thằn lằn, rắn, chim và cá mập. Ổ trứng cá sấu không nở, nhưng phân tích di truyền phôi thai bên trong một quả trứng hé lộ nó gần như giống hệt con mẹ. Nhóm tác giả nghiên cứu cho biết con non ra đời theo cách như vậy thường bị dị tật và không thể sống sót.
Cá heo trộm bẫy cua
Camera ghi lại hành vi trộm mồi nhử của cá heo. Video:Trung tâm khám phá cá heo
Cá heo mũi chai bị bắt gặp trộn mồi nhử của ngư dân ở tây Australia. Cá heo sử dụng mõm và răng để chôm chỉa cá từ lưới dùng cho bẫy cua. Những chuyên gia bảo tồn ghi lại hành vi lần đầu tiên năm 2023, hé lộ những cách khác nhau mà cá heo học được để mở bẫy của ngư dân. "Phiên bản đơn giản nhất là cá heo giật mồi nhử treo ở móc hoặc chốt kim loại bên trong bẫy cua. Vì vậy về cơ bản, cá heo giật cá ra khỏi chốt hoặc chia thành nhiều miếng dễ ăn", nhà quay phim Axel Grossmann chia sẻ với Live Science vào tháng 11/2023.
Để ngăn chặn chúng, một số ngư dân đặt mồi nhử bên dưới bẫy cua, buộc cá heo phải sử dụng kỹ thuật phức tạp hơn. Nhưng chúng nhanh chóng tìm ra cách dùng hàm và thân lật đổ bẫy cua để tiếp cận mồi nhử dễ dàng hơn. Những con cá heo thậm chí mở hộp nhựa dùng để chứa mồi nhử.
Cá sấu cứu chó nhà
Ba con cá sấu đầm lầy (Crocodylus palustris) dường như cố gắng giúp một con chó nhỏ tuổi bị đàn chó hoang rượt đuổi xuống sông bằng cách đẩy nó tới nơi an toàn. Nhóm nghiên cứu chứng kiến sự việc coi hành vi của cá sấu là sự cảm thông. Tuy nhiên, một số chuyên gia tỏ ra hoài nghi đối với phát hiện. "Cá sấu có một loạt hành vi phức tạp", Duncan Leitch, nhà sinh vật học chuyên nghiên cứu sinh lý học thần kinh của bò sát ở Đại học California, Los Angeles, cho biết. "Nhưng kết luận nêu trên đang sử dụng định nghĩa của con người về trí tuệ và tìm cách gán cho cá sấu".
Cá voi sát thủ ăn 7 con rái cá
Xác những con rái cá nguyên vẹn được lấy ra từ bụng cá voi sát thủ cái mắc cạn. Ảnh:Sergey V. Fomin
Hồi tháng 9/2023, các nhà khoa học mô tả một con cá voi sát thủ mắc cạn (Orcinus orca) với xác 7 con rái cá nguyên vẹn trong bụng. Cá voi sát thủ thường không ăn rái cá (Enhydra lutris) và chuyên nhai động vật biển có vú, vì vậy giới nghiên cứu khá bối rối về lý do con cá voi sát thủ này nuốt chửng nhiều rái cá như vậy. Điều kỳ lạ hơn là nó được tìm thấy ở ven biển quần đảo Commander thuộc vùng Viễn Đông, Nga, cách xa phạm vi sinh sống thông thường giữa vịnh Alaska và vùng biển California. Một con rái cá mắc kẹt giữa khoang miệng và thực quản của cá voi sát thủ có thể là nguyên nhân dẫn đến cái chết của nó.
Ngày nay, hơn 130 thùng bê tông chứa lượng phóng xạ nguy hiểm từ tàu ngầm hạt nhân ngừng hoạt động đang được lưu trữ ở Trench 94.
Các thùng chứa phóng xạ nguy hiểm ở Trench 94. Ảnh: Jurgenhess Photography/Columbia Insight
Hải quân Mỹ sản xuất vô số tàu ngầm hạt nhân, tuy nhiên, sau khi tàu ngừng hoạt động, lò phản ứng cần chuyển tới nơi tập kết, trong trường hợp này là Hanford, một cơ sở liên bang ở bang Washington. Ngày nay, hơn 130 thùng bê tông với lượng bức xạ nguy hiểm được lưu trữ ở Trench 94, và số lượng sẽ tăng lên trong vài thập kỷ tới, theo Popular Mechanics.
Hải quân Mỹ đưa vào hoạt động tàu ngầm hạt nhân đầu tiên là USS Nautilus vào năm 1954. Năng lượng hạt nhân cách mạng hóa tàu ngầm theo hai cách. Đầu tiên, tàu ngầm chạy nhờ năng lượng nguyên tử có tầm hoạt động không giới hạn, cho phép tàu chạy tới bất cứ nơi đâu trong đại dương mà không cần cân nhắc về nhiên liệu. Thức ăn và sức chịu đựng của con người là những yếu tố hạn chế duy nhất. Lò phản ứng trên tàu ngầm có thể hoạt động gần hai thập kỷ với nguồn cung cấp nhiên liệu hạt nhân ban đầu và tiếp nhiên liệu khi ở ụ khô là một tùy chọn.
Lợi thế thứ hai của tàu ngầm hạt nhân nằm ở độ bền dưới nước. Tàu ngầm diesel phải chạy bằng pin khi ở dưới nước do không có đủ không khí để động cơ diesel hoạt động. Bộ pin này phải sạc định kỳ và cách duy nhất để tàu ngầm làm điều đó là vận hành động cơ. Kết quả là tàu ngầm diesel - điện phải thường xuyên nhô lên mặt nước hoặc dùng ống kín đáo để lấy không khí sạch. Trong chiến tranh, nhu cầu ngoi lên mặt nước định kỳ là một nhược điểm lớn đối với tàu lặn diesel - điện, thường là hai ngày một lần. Năm 1959, Hải quân Mỹ đưa vào hoạt động USS Blueback, tàu ngầm diesel - điện cuối cùng. Từ sau đó, mọi tàu ngầm của Mỹ đều chạy bằng năng lượng hạt nhân, có thể lướt dưới nước với vũ khí hạt nhân mà không bị phát hiện.
Trong hơn 4 thập kỷ qua, điều này dẫn đến một nguồn tàu ngầm hạt nhân ngừng hoạt động gia tăng đều đặn. Trong quá trình dỡ bỏ, nhiên liệu hạt nhân bị gỡ ra và chuyển tới Phòng thí nghiệm quốc gia Idaho, để lại lò phản ứng bị ô nhiễm nặng. Tàu ngầm được cắt thành nhiều đoạn, loại bỏ phần chứa lò phản ứng, bao gồm vỏ thép, tấm chắn chì của lò và hợp kim kim loại chống bức xạ và nhiệt độ cao.
Quá trình dỡ bỏ diễn ra tại xưởng đóng tàu hải quân Puget Sound ở Bremerton, Washington. Sau đó, những "thùng khô" hình trụ đã cắt gọn gàng trải qua hành trình cuối cùng bằng phà xuôi theo vùng ven biển, qua sông Columbia. Chúng được tháo dỡ ở cảng Benton và chở bằng xe tải tới Hanford. Hanford, cơ sở do Bộ Năng lượng Mỹ điều hành, được thành lập vào năm 1943 để hỗ trợ dự án Manhattan. Hanford là cơ sở sản xuất plutonium đầu tiên trên thế giới, dùng cho thử nghiệm Trinity, vụ nổ hạt nhân đầu tiên, và quả bom Fat Man thả xuống Nagasaki, Nhật Bản.
Sau khi tới Hanford, các thùng được chuyển vào Trench 94, một rãnh lộ thiên dài 305 m. Tính đến nay, có 136 thùng có thể quan sát bằng Google Maps, mỗi thùng là vết tích của một tàu ngầm hạt nhân, sắp xếp gọn gàng theo 5 hàng. Mang tên High Integrity Containers (HIC), các thùng được thiết kế để chứa lò phản ứng trong 300 năm và chịu được tổn hại khi rơi từ độ cao 10 m. Theo Hải quân Mỹ, mỗi lò phản ứng chứa khoảng 25.000 curie phóng xạ, đủ để giết chết một người trong vài giây tiếp xúc. Số curie giảm dần do phân rã phóng xạ, nhưng mỗi thùng vẫn còn 250 curie sau 1.000 năm.
Số lượng thùng ở Trench 94 tăng dần qua các năm do Hải quân Mỹ ngừng sử dụng thế hệ tàu ngầm hạt nhân đầu tiên. Những thùng mới đến từ dòng tàu ngầm lớp Los Angeles bị thay thế bởi lớp Virginia mới hơn. Tổng cộng, Trench 94 sẽ có thêm khoảng 50 thùng mới trong 20 năm tới.
Hầm hạt giống toàn cầu Svalbard nằm sâu 120 m bên trong núi đá sa thạch trên đảo Spitsbergen và bao quanh là đất đóng băng vĩnh cửu, giúp bảo quản hạt giống trường tồn.
Trên đường ra biển để sinh sản, 7 triệu con cua đỏ trên đảo Giáng sinh phải đối mặt kẻ thù to gấp 10 lần là cua dừa và những chiếc xe dễ dàng nghiền nát chúng.
Các nhà khoa học cho rằng các quy định liên quan định giá tài sản hình thành từ kết quả của nhiệm vụ khoa học công nghệ chưa rõ, thành rào cản đưa kết quả nghiên cứu ra thị trường.
Phát biểu tại hội thảo "Đổi mới cơ chế quản lý, xử lý tài sản hình thành từ nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước", do Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức ngày 25/12, Thứ trưởng Lê Xuân Định cho rằng việc hoàn thiện cơ chế quản lý, tài sản hình thành từ các nhiệm vụ rất quan trọng. Ông kỳ vọng các nhà khoa học đóng góp với góc nhìn đa chiều để hoàn thiện hệ thống chính sách.
Thứ trưởng nhìn nhận hành lang pháp lý hiện tại chưa đi vào thực tiễn. Tắc nghẽn chính nếu không được xử lý kịp thời, đồng bộ, các tài sản hình thành từ nhiệm vụ nghiên cứu của nhà khoa học sẽ không thể đưa vào ứng dụng rộng rãi.
Thứ trưởng Lê Xuân Định phát biểu tại hội thảo. Ảnh: TTTT
PGS.TS Trần Quốc Bình, phó Hiệu trưởng trường ĐH Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội nêu thực tế vướng mắc nhất ở hai từ "thất thoát và định giá".
Ông cho biết với việc định giá đất đai, bất động sản khá dễ vì có thông tin rõ ràng với sai số 15% trong mức chấp nhận được. "Nhưng với tài sản công, mức 15% được coi là vi phạm. Trong khi đó tài sản được hình thành từ nhiệm vụ khoa học công nghệ là vấn đề mới, do đó rất khó trong việc định giá" ông nói.
Trong thanh lý tài sản, ông Bình nêu ví dụ với thiết bị khoa học công nghệ có quy định trên 500 triệu cần định giá. Khi thực hiện cần chi thêm tiền thuê các công ty định giá thanh lý. "Khi đó việc thanh lý, định giá có thể dẫn tới các thất thoát nhiều hơn", PGS Bình nêu.
PGS.TS Vũ Đức Lợi, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ Việt Nam - Hàn Quốc (VKIST) cho biết, thực tế tại viện ông hiện có nhiều công nghệ, đề tài liên quan ngân sách nhà nước, doanh nghiệp nhưng không chuyển giao được. Lý do vướng về định giá công nghệ và chia sẻ lợi nhuận.
Trong khi đó cũng công việc tương tự, khi thực hiện chuyển giao với phía KIST (Hàn Quốc) việc thực hiện theo thông lệ rất nhanh chóng. Họ định giá theo tiêu chí coi sản phẩm công nghệ như một đề tài cụ thể để hội đồng đánh giá tính chi phí, gọi là giá cơ sở để chuyển giao.
Ông nhìn nhận tài sản hình thành từ triển khai nhiệm vụ khoa học công nghệ chủ yếu vướng liên quan đến công nghệ, dùng để chuyển giao cho doanh nghiệp do đó việc tiếp cận dựa theo định giá cơ sở (giá sàn) là cần thiết. "Cách tiếp cận của Hàn Quốc là xây dựng giá cơ sở, đưa trang web để đơn vị có nhu cầu cao trả giá cao nhất để sở hữu", ông nói.
Hay theo thông lệ quốc tế của Mỹ, việc định giá thực hiện theo ba tiêu chí gồm tiêu chuẩn đánh giá doanh nghiệp dựa trên cách tiếp cận thu nhập, thị trường và chi phí.
Năm 2019 Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 10 về hướng dẫn xác định giá trị tài sản là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng vốn nhà nước. "Thông tư này bám sát theo cách tiếp cận của Mỹ, nhưng Việt Nam chưa có thị trường đầy đủ khiến giải quyết bài toán định giá sản phẩm rất khó", ông Lợi nói.
PGS.TS Vũ Đức Lợi nêu ý kiến tại hội thảo. Ảnh: TTTT
Còn GS.TS Trần Đình Hòa, Ban Chủ nhiệm Chương trình KC08, cho biết trong định giá, nếu xét tác động công nghệ ứng dụng trong đời sống sản xuất có thể đánh giá dựa theo mức độ tạo ra chất lượng năng suất. Nhưng các tác động phục vụ đề xuất mang tính chất chiến lược quy hoạch dự báo lâu dài lại rất khó định giá. "Có những đề tài 5-10 năm sau mới phát huy giá trị biết định giá ra sao?", ông nói.
Ông nêu trong lĩnh vực phòng chống thiên tai, công nghệ bảo vệ bờ biển được nghiên cứu nhưng mang tính chất thử nghiệm, khó để đơn vị nhận trách nhiệm định giá và theo dõi. Hay các thí nghiệm, mô hình tính toán mới thực hiện trong phòng thí nghiệm cần theo dõi diễn biến cả quá trình, khi thành công nhân rộng mới có thể nghiệm thu bàn giao. Do đó, ông kiến nghị phân loại tài sản phù hợp, mỗi loại hình như mang tính tính phục vụ cơ chế chính sách, hay sản phẩm công nghệ trực tiếp chuyển giao, tài sản hình thành độc quyền sáng chế.
Tại hội thảo, các nhà khoa học cũng nêu bất cập khác, trong đó phương pháp xác định giá trên tổng hợp các chi phí triển khai nhiệm vụ là chưa phù hợp do còn có đóng góp quan trọng của "chất xám". Đây là chi phí khó định lượng. Do đó hiện nay khó tìm được cơ quan có khả năng thẩm định giá tài sản từ nhiệm vụ, gây ra khó khăn trong thương mại hóa.
Theo PGS Phí Quyết Tiến, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, việc phân chia lợi nhuận thu được từ thương mại hóa kết quả nghiên cứu, tài sản trí tuệ tạo bằng ngân sách nhà nước chưa tạo động lực cho các tác giả thương mại hóa kết quả nghiên cứu. Ông kiến nghị có cơ chế hỗ trợ tác quyền, tác giả chuyển giao và cơ quan chủ trì. Về kinh phí định giá, PGS Tiến cũng đưa ra sáng kiến hợp đồng 3 bên, trong đó có thêm góp mặt của Viện định giá, đơn vị thụ hưởng tương lai cùng tham gia nhằm tháo gỡ cho doanh nghiệp và nhà khoa học.
PGS.TS Trần Quốc Bình đề xuất ba giải pháp. Một là, coi việc đầu tư các dự án như một khoản tài trợ chứ không phải đầu tư để thu hồi vốn, tức là chấp nhận độ rủi ro. Ở đó tài sản trí tuệ chuyển giao cho doanh nghiệp được thu hồi gián tiếp qua cơ chế thuế. Hai là, ở cấp độ thấp hơn là không bán tài sản trí tuệ hình thành mà sử dụng cơ chế cho quyền sử dụng, thu % doanh thu từ tài sản đó. Tức là bán được bao nhiêu nộp doanh thu ngược lại để thị trường tự định giá (cách này Đại học Quốc gia Hà Nội đang sử dụng). Ba là, nếu thực hiện định giá cần có mức sàn chung áp dụng khi thuyết minh đề tài dự án, để tránh vi phạm liên quan thủ tục định giá, cấu kết lợi ích.
Tiếp thu và ghi nhận các ý kiến nêu tại hội thảo, đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết sẽ tiếp tục phối hợp Bộ Tài chính trong quá trình hoàn thiện chính sách, rà soát, sửa đổi quy định về cơ chế trong quản lý tài sản hình thành từ các chương trình, nhiệm vụ, tháo gỡ các Luật Quản lý tài sản công, Khoa học công nghệ... nhằm gỡ nút thắt cho hoạt động chuyển giao.
Chuỗi "đối thoại khám phá tương lai" giữa các nhà khoa học hàng đầu thế giới, chủ nhân giải Nobel với sinh viên 6 trường đại học của Việt Nam được đánh giá "khích lệ nhà nghiên cứu trẻ theo đuổi đam mê".
Lễ vinh danh giải thưởng VinFuture 2023 và Tuần lễ Khoa học được tổ chức từ 18 đến 21/12 tại Hà Nội với nhiều hoạt động tọa đàm, giao lưu xuyên suốt về các chủ đề thời sự. Trong đó GS. Salim Abdool Karim, chủ nhân giải VinFuture 2021 nói về xây dựng năng lực nghiên cứu nhằm giải quyết các vấn đề y tế toàn cầu; GS Susan Solomon (Mỹ) nói về câu chuyện về lỗ thủng tầng ozone ở Nam Cực; GS Stanley Whittingham và GS. Martin Andrew Green bàn những phát triển đột phá kiến tạo nền tảng bền vững cho năng lượng xanh...
GS.TS.BS Tạ Thành Văn, Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Y Hà Nội đánh giá ý tưởng "tuyệt vời" vì tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu trẻ Việt Nam được tiếp xúc trực tiếp với các nhà khoa học hàng đầu thế giới. Đây là cơ hội trao đổi chuyên môn, kinh nghiệm triển khai các đề tài nghiên cứu và cách tiếp cận các nguồn tài trợ.
Theo GS Văn thông thường các nghiên cứu trẻ chủ yếu tiếp cận các nhà khoa học có tầm ảnh hưởng qua các công trình, phương tiện truyền thông. Vì vậy được tham dự trực tiếp các bài giảng sẽ tạo đam mê, ham muốn khám phá trong khoa học. "Giống như GS Karim, chủ nhân giải đặc biệt VinFuture 2022, nói làm khoa học phải có đam mê thì mới tạo được động lực cho cả chặng đường dài sau này", ông nói.
GS Tạ Thành Văn đánh giá về cơ hội của nhà khoa học trẻ khi giao lưu với nhà khoa học hàng đầu thế giới. Ảnh: Phước Văn
Là nhà khoa học Việt Nam đầu tiên nhận giải thưởng VinFuture, GS Võ Tòng Xuân, Trường Đại học Nam Cần Thơ, bày tỏ sự kỳ vọng các nhà khoa học trẻ sẽ được định hướng trên con đường nghiên cứu ứng dụng tại Việt Nam.
Ông cho hay Hội đồng sơ khảo và Hội đồng Giải thưởng VinFuture không chỉ nhìn nhận giá trị khoa học của một sáng kiến dựa trên bài báo, mà còn đánh giá ý nghĩa thực tiễn mang lại. Đó là những nghiên cứu được nhìn vấn đề thực tế người nông dân gặp phải, làm sao nâng cao chất lượng cuộc sống từ đó xây dựng các công trình đưa vào báo cáo khoa học. "Xu hướng ở nhiều quốc gia hiện nay, trong đó Việt Nam, các nhà khoa học suy nghĩ về quá nhiều chủ điểm để nghiên cứu và cố gắng đưa các bài báo lên tạp chí quốc tế công bố là xong nhưng không ứng dụng trong thực tế. Điều đó tốn kém về tiền của", ông nói.
Nhà giáo nhân dân, GS.TS Võ Tòng Xuân. Ảnh: Văn Lưu
GS Võ Tòng Xuân gợi ý, khi ngân sách nghiên cứu hạn chế, nhà khoa học trẻ nên tìm và xác định vấn đề thực tiễn, xã hội ở những địa bàn, khu vực mà gần gũi với chuyên ngành đang theo đuổi. Sau đó phải thiết kế các giả thiết, thực hiện các thí nghiệm để thử nghiệm vấn đề đưa ra, từ đó kết quả mới được ứng dụng.
Ông cho rằng thay vì chỉ làm nên một bài báo, một chủ đề cho kết quả xong rồi để trên giá sách, hãy nghiên cứu những gì con người đang quan tâm với kết quả chạm tới cuộc sống người dân. "Tôi hy vọng các nhà nghiên cứu trẻ theo định hướng đó, các bạn trẻ hãy luôn học hỏi, trước hết hãy học thật", ông nói.
GS Stanley Whittingham, Đại học Binghamton, Đại học bang New York, Mỹ, bày tỏ ấn tượng. "Tôi rất ấn tượng các bạn trẻ đam mê với ngành học và quan tâm ngành năng lượng cùng sự phát triển trong tương lai Việt Nam", ông nói.
Nhà khoa học đặt câu hỏi với các diễn giả tại Đại học bách khoa Hà Nội sáng 19/12. Ảnh: Phước Văn
GS Whittingham từng mô tả bản thân thường cảm nhận và tìm tòi động lực từ những người trẻ. Ông kể "vẫn giữ liên lạc với hầu hết sinh viên" thậm chí hàng tuần qua zoom, từ học sinh thời phổ thông sau này thành giáo sư hóa học, hay sinh viên từ Mỹ, Trung Quốc để trao đổi công nghệ hay khởi nghiệp. Từ kinh nghiệm làm khoa học, ông hy vọng sinh viên Việt Nam hãy thật sự theo đuổi những gì bản thân mong muốn. "Đừng làm mọi thứ vì tiền, hãy tìm thấy đam mê từ ngành học của mình hơn nữa", ông nói.
Còn Martin Green, Đại học New South Wales, Australia nói ông được truyền cảm hứng rất nhiều bởi sinh viên Việt Nam vì rất quan tâm đến lĩnh vực năng lượng sạch và đưa ra những câu hỏi ấn tượng. Ông cho hay lĩnh vực năng lượng sạch, năng lượng tái tạo sẽ có rất nhiều cơ hội trong tương lai, do đó ông mong các nhà nghiên cứu trẻ kiên trì và giữ vững đam mê.
MỹTrong chuyến săn kéo dài 30 phút nhằm dạy con non cách săn mồi, cá voi sát thủ mẹ nhiều lần hất tung cá heo lên khỏi mặt nước.
Đàn cá voi sát thủ tương tác với cá heo. Video: Domenic Biagini
Nhà làm phim về động vật hoang dã Domenic Biagini ghi lại cảnh tượng hiếm gặp trong chuyến quan sát cá voi ở ngoài khơi San Diego, California, Mỹ, NBC News hôm 22/12 đưa tin. Trong video, cá voi sát thủ dạy con non săn mồi bằng cách dùng đầu húc cá heo, khiến cá heo văng lên không trung vài lần.
"Bầy cá voi sát thủ đã tóm được cá heo, nhưng lại buông ra sau khi con vật đã chịu khuất phục và không còn nhanh nhẹn nữa. Chúng đưa cá voi sát thủ con tới để nó thử cố gắng tự bắt cá heo", Biagini giải thích. Ông cho biết, chuyến săn kéo dài khoảng 30 phút, lâu hơn nhiều so với cuộc đi săn thông thường của cá voi sát thủ vì lần này chúng đang dạy con non.
Là một trong những động vật săn mồi đứng đầu đại dương, cá voi sát thủ kết hợp kích thước lớn và tốc độ nhanh của chúng vào các chiến lược săn mồi, theo nhà sinh vật biển Alisa Schulman-Janiger, đồng sáng lập Dự án Cá voi sát thủ California. Chúng thường làm chậm con mồi để biểu diễn cách săn cho con non.
"Cá voi sát thủ có thể dễ dàng di chuyển với tốc độ 40 km/h, đâm vào cá heo mạnh đến mức khiến cá heo bị hất tung lên khỏi mặt nước", Schulman-Janiger nói. Bà cho biết thêm, cá voi sát thủ con trong video còn quá nhỏ nên khoảng da nhỏ ở vùng mắt vẫn màu vàng thay vì trắng. Màu sắc sẽ nhạt dần khi nó trưởng thành hơn.
Những con vật xuất hiện trong thước phim của Biagini là cá voi sát thủ Thái Bình Dương nhiệt đới phương đông, thường sống ở các vùng biển Mexico và Trung Mỹ, theo Schulman-Janiger. Hiếm khi người ta bắt gặp chúng ở vùng nước tương đối lặng và ấm áp của Nam California. Schulman-Janiger cho rằng số lượng lớn cá heo trong khu vực này có thể ít quen với việc bị cá voi sát thủ săn lùng.
"Chúng tôi cố gắng giải thích cho các hành khách rằng những gì cá voi làm với cá heo đôi khi có thể khá đáng sợ, nhưng như vậy là bình thường và lành mạnh. Điều đó nghĩa là hệ sinh thái của chúng ta vẫn đang vận hành theo đúng bản chất tự nhiên", Biagini nói.
Năm 1983, GS Martin Green vẽ sơ đồ đầu tiên của công nghệ bộ phát thụ động và tiếp điểm phía sau (PERC), kể từ đó nhóm của ông giữ kỷ lục về hiệu suất pin mặt trời silicon suốt hơn 30 năm qua.
GS Martin Green (thứ hai từ trái qua) cùng với 3 thành viên nhận giải VinFufure tối 20/12 tại Hà Nội. Ảnh: Giang Huy
GS Martin Andrew Green, Đại học New South Wales, Australia là một trong 4 nhà khoa học nhận Giải chính VinFuture 2023 trị giá 3 triệu USD (tương đương 73 tỷ đồng), với cho phát minh đột phá, tạo nền tảng cho năng lượng xanh thông qua việc sản xuất pin mặt trời và lưu trữ bằng pin Lithium-ion.
Những năm 1976, các mô-đun năng lượng mặt trời tốt nhất mới có hiệu suất 5-6%, ước tính có tuổi thọ thực địa chỉ hơn một năm. Nhưng giờ đây với các mô-đun PERC thương mại hiện có hiệu suất lên tới 21,6% và tuổi thọ có thể đạt tới 30 năm. Để có được các loại pin mặt trời hiện đại có hiệu suất cao này đều dựa vào công nghệ bộ phát thụ động và tiếp điểm phía sau (PERC) do nhóm của GS Martin Green tiên phong phát triển.
GS Martin giữ kỷ lục về hiệu suất pin mặt trời silicon suốt hơn 30 năm, được mô tả là một trong 10 cột mốc quan trọng trong lịch sử quang điện mặt trời. Công trình của ông cải thiện trên 50% về hiệu suất chuyển đổi năng lượng của pin mặt trời silicon, chiếm ưu thế thương mại từ năm 1983 đến 2008. Những cải tiến này đã được áp dụng trên thị trường. Pin silicon chiếm ưu thế với mức tăng hàng năm là 96% thị trường năng lượng mặt trời toàn cầu, trị giá 308 tỷ USD vào năm 2022, theo Bloomberg.
GS Martin Andrew Green chụp cùng tấm pin mặt trời. Ảnh: Đại học New South Wales
Martin vốn là sinh viên ngành kỹ thuật điện tử, nhưng lại hứng thú nghiên cứu tìm kiếm nguồn năng lượng mới. Những năm 1970, nghiên cứu về năng lượng mặt trời không mấy mặn mà, bởi theo ông mô tả, nó không "tạo ra nguồn điện lớn với giá phải chăng". Thời điểm ấy sản xuất rất đắt đỏ nên họ coi dự án quá tham vọng, không có triển vọng. So với ngành điện hạt nhân quá hot và có triển vọng lớn, điện mặt trời chỉ như "con bọ chét trên lưng con voi", ông kể trong cuộc trò chuyện với báo chí Việt Nam.
Green là người đầu tiên mô tả, và nhóm của ông là những người đầu tiên phát triển, chứng minh bằng thực nghiệm hai cách tiếp cận khác nhau về cơ bản để cải thiện hiệu suất tế bào pin silicon. Năm 1983, ông vẽ sơ đồ đầu tiên của pin PERC. Ban đầu phương pháp tiếp cận nhóm là sử dụng các tiếp điểm trên diện tích nhỏ kết hợp với thụ động hóa bề mặt oxit mỏng, gọi là PESC - pin mặt trời phát thụ động. Họ lập kỷ lục thế giới đầu tiên về hiệu suất 19% vào cuối năm 1983. Với việc bổ sung thêm kết cấu để giảm phản xạ, PESC giúp nâng hiệu suất pin silicon từ 20% (năm 1985) lên 21% (năm 1988) nhờ sử dụng tiếp xúc phía sau Al-BSF tiêu chuẩn.
Nhận thấy hiệu suất tăng lên đáng kể, nhóm tiến hành cải tiến tiếp điểm phía sau với pin PERC. Nhờ đó của nhóm tiếp tục nâng hiệu suất pin lên 23%, 24% rồi lên 25% trong các năm 1989, 1994, 1999.
Kỷ lục pin 25% tồn tại trong 15 năm tiếp theo, dẫn đến việc thương mại hóa PERC vào năm 2012 và PERC trở thành công nghệ sản xuất thống trị toàn cầu vào năm 2018. Trong những năm sau đó, PERC chiếm khoảng 90% sản lượng mô-đun năng lượng mặt trời toàn cầu, với số lượng mô-đun PERC hiện được lắp đặt nhiều hơn bất kỳ hoạt động sản xuất năng lượng mặt trời nào khác trong lịch sử nhân loại.
Sở dĩ nghiên cứu công nghệ tấm pin mặt trời của Green được coi là cuộc cách mạng hóa, bởi hiệu suất pin silicon được cải thiện là yếu tố chính giúp giảm chi phí sản xuất và đưa năng lượng mặt trời trở thành "một trong những nguồn điện có chi phí thấp nhất trong lịch sử", mở ra kỷ nguyên sản xuất năng lượng tái tạo hiệu quả. "Một tấm pin chi phí hàng nghìn USD như tôi đang cầm, nhưng bây giờ chỉ khoảng 1 USD", Martin chia sẻ.
GS Martin Green (giữa) cầm tấm pin mặt trời giới thiệu trong buổi giao lưu hôm 21/12 tại Hà Nội. Ảnh: Phước Văn
Từ ý tưởng bị cho là viển vông, ông nói "vô cùng vui mừng" khi giờ đây nhiều doanh nghiệp đã đầu tư và cạnh tranh. GS Martin cho hay sự thay đổi diễn ra từ khi công nghệ phát triển, khiến người ta dần dễ chấp nhận và không kháng cự. Công nghệ đã phát triển kịp thời ở thời điểm phải gia tăng những nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu, công nghệ giúp giá thành phải chăng hơn. "Bây giờ mọi thứ đảo ngược lại, năng lượng mặt trời là con voi, năng lượng khác là bọ chét", ông ví von.
GS Martin dự đoán nguồn cung năng lượng mặt trời sẽ chiếm tỷ trọng lớn toàn thế giới vào năm 2040, thậm chí sớm hơn. "Hiện công nghệ chuyển dịch được khắc phục nhanh chóng, việc lắp đặt dễ dàng hơn, tôi tin trong tương lai phần lớn nguồn cung sơ cấp trên thế giới đến từ năng lượng mặt trời".
GS Martin đánh giá, Việt Nam thuộc top 10 quốc gia có tỷ lệ hệ thống điện mặt trời lắp đặt lớn trên thế giới và cũng là quốc gia có sản lượng sản xuất tâm pin năng lượng mặt trời lớn bậc nhất. "Đó là bước tiến mạnh mẽ, Việt Nam có lợi thế không chỉ lắp đặt hệ thống mà còn sản xuất tấm pin năng lượng mặt trời", ông gợi ý có thể dựa vào năng lượng mặt trời thay vì hóa thạch để đáp ứng năng lượng điện một cách bền vững.
Với các nhà nghiên cứu trẻ, ông cho biết lĩnh vực năng lượng mặt trời là một trong những ngành công nghiệp sẽ phát triển mạnh mẽ trong các thập kỷ tới. Sẽ có nhiều thách thức khó khăn đòi hỏi giải đáp bằng các nghiên cứu. "Khi lưới điện thay đổi, từ lệ thuộc hóa thạch sang mặt trời không chỉ cần nghiên cứu học thuật mà còn cần sản phẩm cho doanh nghiệp để khắc phục nhược điểm. Đây là sẽ miền đất nghiên cứu màu mỡ tạo ra nhiều triển vọng cho các bạn", ông gợi ý.
GS Martin Green được mệnh danh là "một trong những bộ óc có ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực kỹ thuật", đồng thời cũng là một trong những nhà nghiên cứu được trích dẫn nhiều nhất trên thế giới, được chọn vào danh sách nhà khoa học trích dẫn cao của Clarivate. Ông đạt nhiều giải thưởng quốc tế lớn như Giải Australia 1999, Giải SolarWorld Einstein năm 2007, Huy chương Ian Wark năm 2016 của Viện Hàn lâm Khoa học Australia, Giải Năng lượng Toàn cầu danh giá năm 2018, Giải thưởng Nhật Bản năm 2021, Giải thưởng Công nghệ Millennium 2022 và cùng với ba cựu sinh viên đoạt Giải thưởng Nữ hoàng Elizabeth năm 2023 về Kỹ thuật.